Thiền Tông “hổ lốn” trong bụng Tô Đông Pha

Tiếng khe, như tiếng quảng trường thiệt

Sắc núi, đúng màu thanh tịnh thân

Đêm lại tám muôn bốn ngàn kệ

Sáng ra làm sao nói với người?

Bài thất ngôn tứ tuyệt trên đây là của Tô Đông Pha sáng tác khi ngủ lại đêm ở chùa Đông Lâm. Đông Pha bảo nó là kệ thì cho nó là kệ cũng chẳng sao. Bài kệ của ông ta hai câu mở đầu, mới xem qua thật kinh người. Nếu không phải là tác gia tông hạ thì khẩu khí của ông ta không quá khoát đại như vậy, ngay cả Thượng Trúc Trí Viên Chứng Ngộ Pháp sư còn bị gạt nữa là. Một hôm Chứng Ngộ đến tham yết Hộ Quốc Thử Am Nguyên Thiền sư, hai bên bàn luận suốt đêm. Chứng Ngộ đưa ra bài Túc Đông Lâm Kệ của Tô Đông Pha và khen: “Cũng không dễ gì đến được chỗ đó!”

Am nói: Đường còn chưa biết, nói gì chuyện đến?

Chứng nói: “Tiếng khe như tiếng quảng trường thiệt, sắc núi đúng màu thanh tịnh thân”; nếu không đến được chỗ ấy thì làm sao dám thốt ra như thế?

Am nói: Chỉ là bọn ngoài cửa thôi!

Chứng nói: Xin Hòa thượng từ bi nói toạt ra thử?

Am nói: Có thể từ chỗ tình thái mạnh mẽ đó mà rình bắt được, nếu rình bắt được ông ta rồi thì sẽ biết bổn mạng nguơn thần của ông ấy rơi vào đâu.

Chứng nghe nói thế hoang mang, cả đêm suy nghĩ mãi, không tài nào ngủ được, bất giác trời sáng, bỗng nghe tiếng chuông hoát nhiên đại ngộ, như cất đi gánh nặng, làm bài kệ:

Cư sĩ Đông Pha thật lắm lời

Thanh sắc tầm thường muốn ví thân

Khe nếu là thanh, núi là sắc

Núi không, nước cạn khéo trêu nhân.

Làm kệ xong lật đật đem cho Thử Am xem. Am bảo: “Trước đây những gì ông nói đều là của bọn ngoài cửa”. Chứng bèn lễ tạ.

Đoạn công án này nói ra thật là kỳ quái, Tông môn có hai câu rất quen thuộc: “Xanh xanh trúc biếc đều là Pháp thân, rỡ rỡ hoa vàng đâu không Bát-nhã”. Ý câu này các tòng lâm đều công nhận, thế thì ý kệ của Tô Đông Pha xem ra cũng đồng một lối nói, tại sao Thử Am lại bảo là còn chưa thấy lối? Mà Chứng Ngộ nghe chuông chợt rỗng rang, là thấy được đạo lý gì? Hai điểm nghi vấn này nên thương lượng thật kỹ mới được.

Chúng ta phải biết Thiền Tông còn gọi là Tâm Tông, việc này cần phải thân ngộ, thân chứng, không phải ý thức suy lường mà đến được. Nếu là người thân chứng đạo tràng thì nói dọc nói ngang đều là đúng cả. Chẳng thấy ngài Triệu Châu đó sao? Có vị tăng hỏi: “Con chó có Phật tánh không?” Châu đáp: “Không”. Hôm khác có vị tăng hỏi: “Con chó có Phật tánh không?” Châu đáp: “Có”. Có thể thấy rằng bậc thiện tri thức phá lập tự tại đều không có gì nhất định cả. Lại, vị tăng Chí Triệt hỏi Lục Tổ: “Đệ tử thường xem Kinh Niết Bàn, chưa hiểu về nghĩa Thường và Vô thường, xin Hòa thượng từ bi giải thích tóm tắt cho”. Tổ nói: “Vô thường tức Phật tánh, Hữu thường tức tâm phân biệt tất cả pháp thiện ác”. Chí nói: “Lời Hòa thượng nói rất trái với kinh văn”. Tổ nói: “Ta là truyền Phật tâm ấn, đâu dám nói trái với kinh”. Chí nói: “Kinh nói Phật tánh là thường, Hòa thượng lại nói là vô thường; pháp thiện ác cho đến tâm Bồ-đề đều là vô thường, Hòa thượng nói trái lại. Điều này khiến cho người học càng thêm nghi hoặc”.

Tổ nói: “Ngày xưa ta đã từng nghe cô ni Vô Tận Tạng tụng qua một lượt rồi giảng nói cho cô nghe, không một chữ một nghĩa nào trái với văn kinh. Bây giờ nói cho ông nghe cũng không khác xưa, ông có biết không? Phật tánh nếu thường, thì còn nói các pháp thiện ác làm gì? Cho đến cùng kiếp không có người phát tâm Bồ-đề. Vì thế ta nói là vô thường, chính là đạo chơn thường của Phật nói. Lại, tất cả các pháp nếu là vô thường, thì mọi sự vật đều có tự tánh lẽ đâu bị sinh tử mà nghĩa chơn thường có chỗ chẳng khắp. Vì thế ta nói thường chính là nghĩa chơn vô thường. Phật vì hàng phàm phu ngoại đạo chấp nơi tà thường, các hàng Nhị thừa thường mà chấp vô thường, cộng thành bát đảo; cho nên trong Niết-bàn liễu nghĩa giáo phá tà kiến của họ mà hiển nói chơn thường, chơn lạc, chơn ngã, chơn tịnh. Ông nay theo lời trái nghĩa, dùng đoạn diệt vô thường và xác định tử thường mà hiểu lầm lời nói viên diệu rốt sau của Phật. Dù cho xem đọc ngàn lần cũng đâu có ích gì?”

Chí bỗng nhiên đại ngộ mà nói kệ rằng:

Nhơn giữ tâm vô thường

Phật nói có tánh thường

Chẳng biết là phương tiện

Như lượm ngói ao xuân.

Ta nay không ra sức

Phật tánh vốn hiện tiền

Không phải thầy truyền thọ

Ta cũng chẳng được chi.

Tổ ấn khả cho, nói: “Ông nay đã thấu triệt rồi”.

Chí lễ tạ mà lui.

Xem ra có thể thấy người đã đến nhà (đạt ngộ) chỗ nào cũng là đường, chánh thuyết cũng đúng mà phản diện cũng không sai. Nếu chỉ căn cứ vào tâm cơ ý thức thông minh linh lợi múa bút thành lời thì chỉ coi là thứ văn chương của Thiền Tông hổ lốn mô phỏng theo “trúc biếc hoa vàng” để làm chỗ thấy của mình thôi. Đó cũng là để lộ ra sự chấp trước Phật tánh là thường, sinh diệt vô thường mà kim khẩu Như Lai đã tuyên nói cũng không tiêu nổi một cái quét của Tổ sư tông môn. Thử Am là một vị đại thiện tri thức có mắt huệ sáng suốt, nhìn dọc suốt ba đời, ngang thấu mười phương, nói lên liền biết rõ ràng, như nhìn người đi trước mặt còn dễ biện biệt.

Tô Đông Pha còn có một bài kệ rung động xưa nay như sau:

Cúi lạy Thiên trung Thiên

Hào quang chiếu đại thiên

Tám gió không lay động

Ngồi vững đài Kim liên.

Bài kệ này so với bài kệ trước càng ổn diệu hơn. Thiên trung Thiên chỉ cho Phật là bậc Thánh hùng, hào quang là ánh sáng phát xuất từ tự tánh của Phật. Một ngàn thái dương hệ là 1 tiểu thiên thế giới, 1.000 tiểu thiên thế giới là 1 đại thiên thế giới. Tám gió là 8 thứ gió từ hoàn cảnh (cảnh phong): Lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc (lợi lộc, suy hao, hạ thấp, đề cao, khen, chê, khổ, vui). Trước định lực của Phật, 8 thứ gió này không làm lay động được, Ngài vẫn ngồi sừng sững trên tòa sen báu. Bài kệ này như thật khen ngợi công đức của Phật, ngay trên văn chương có đủ khởi thừa chuyển hợp, không chê vào đâu được. Đến nay trong các tòng lâm tuyên sớ, còn mượn dùng làm đầu sớ, vào ngày rằm, mồng một, vị sư Duy-na ngân nga đọc lớn. Bình tâm mà luận, bài kệ này hay không thể tưởng, Tô Đông Pha làm xong bài kệ này rất là khoái chí, vuốt râu ngâm vịnh mãi. Ông ta qua lại rất thân với Hòa thượng Phật Ấn, chép bài kệ trên xong, liền sai tên gia đinh chèo thuyền đưa đến cho Ấn lão và dặn dò chờ xem có phúc đáp gì không. Ông ta cho rằng thế nào Phật Ấn cũng tán thưởng đặc biệt, nào ngờ Phật Ấn xem xong chỉ nói hai tiếng “cức chó” rồi ném đi.

Lát sau gia đinh hỏi:

– Hòa thượng có thơ phúc đáp cho lão gia tôi không?

Sư đáp: Không.

Gia đinh nói:

– Thế thì Hòa thượng có điều gì dặn dò để tiểu nhân thưa lại?

Sư nói:

– Mày là thằng điếc! Lão tăng đã chẳng nói “cức chó” rồi sao?

Tên gia đinh bị một bữa không thú vị gì, thật là nuốt không trôi, bắt buộc phải chèo thuyền trở về báo lại, chẳng có thơ trình. Tô Đông Pha lấy làm lạ hỏi:

– Ấn lão có thơ phúc đáp không?

– Nếu có thơ phúc đáp thì tiểu nhân đâu dám không trình lên lão gia! Gia đinh đáp.

– Vậy thì Ấn lão xem bài thơ của ta rồi có nói gì không?

– Không có nói lời chi!

– Đồ cức! Bài thơ hay như vậy lẽ đâu chả nói tiếng nào? Đông Pha bực tức nói.

– Đồ cức! Tiếng đó thì có. Lão hòa thượng xem xong, nói: “Cức chó”, rồi ném đi. Gia đinh nói.

Tô Đông Pha nghe báo như thế, giận đến ba hồn nhảy dựng, thất khiếu phì hơi, lật đật nói:

– Hòa thượng già tối mắt, bài kệ của ta đựng nước còn không chảy mà ông ta chẳng coi ra gì cả!?

Nói xong, Tô bảo gia nhân chuẩn bị xuồng chở ông ta qua sông ngay. Vừa gặp Phật Ấn, Tô ta hét lớn:

– Ấn lão, vừa rồi bài kệ của tôi có chỗ nào không hay? Xin được khai thị, khai thị, khai thị!

Phật Ấn khiêm hòa nhỏ nhẹ nói:

– Tám gió thổi chẳng lay, cức chó vượt sông ngay.

Đông Pha nghe nói, biết mình rơi vào thế hạ phong, không đừng được ngửa mặt lên trời cười ha hả:

– Hòa thượng quả nhiên đáng bội phục!

Do đó càng thêm tương đắc, qua lại càng mật thiết.

Thành thật mà nói, Phật Ấn là một vị Tông tượng chơn tham thật chứng, một lời nói, một cử chỉ của ngài đều phát xuất từ “trí”. Còn Tô Đông Pha chỉ là một văn hào thông minh, dù cho ngòi bút nở hoa đi nữa cũng chỉ là phát xuất từ “thức”. Lời câu phát ra từ ý thức dù cho nhảy dựng lên đến cõi trời 33 đi nữa cũng không thể cao hơn đảnh tướng của bậc đại tu hành.

Sau đó, có một hôm Đông Pha đến chơi với Phật Ấn cả ngày, hai người ngồi xếp bằng đối nhau luận thiền. Đông Pha hỏi Phật Ấn:

– Ngài thấy tôi thế nào?

Phật Ấn đáp:

– Là một vị Phật.

Phật Ấn lại hỏi Tô Đông Pha:

– Ông thấy ta ra sao?

Đông Pha nhìn thấy Phật Ấn mập tròn quay lại mặc áo bào đen, bèn đáp ngay:

– Một đống cức trâu!

Phật Ấn không nói gì. Đông Pha cho rằng mình đã thắng một keo, mười phần sung sướng. Đến chiều về nhà, mặt mày hớn hở nói với Tô Tiểu Muội:

– Này muội muội, hồi nào tới giờ mình bị Ấn lão cho đo ván mãi, đấu không lại ông ta. Không biết hôm nay Hòa thượng trở cờ hay Học sĩ này gặp may mà chuyến này Ấn lão không còn lời để nói, không có lý để trình đấy.

Nói rồi bèn đem tình hình pháp chiến vừa qua thuật lại. Tiểu Muội nói:

– Xì, anh thua đậm rồi!

Đông Pha tức quá mắng:

– Ta làm sao lại thua? Tại sao ông ấy không nói một lời nào? Cái con a hoàn này, thiệt là miệng chó không mọc ngà voi đâu nhé!

Tiểu Muội nói:

– Này ca ca, tôi xin hỏi anh, tên Phật quý hay tên cức trâu quý?

Đông Pha nói:

– Đương nhiên là tên Phật quý hơn cức trâu nhiều!

Tiểu Muội nói:

– Phật là Ấn lão thấy, còn cức trâu là anh thấy, thế có phải là toàn quân bị đánh úp không? Ấn lão đắc thắng minh kim, còn có gì để nói nữa?

Đông Pha nghe Tiểu Muội nói thế, như bong bóng xì hơi, biết rằng bị rơi vào vòng của Phật Ấn, thua một keo nặng.

Người nhà họ Tô thật là lạ lùng. Tiểu Muội về thi văn có thể không theo kịp hai anh, nếu luận về sự việc, do vì cả nhà họ đều sùng kính Phật giáo, được các bậc Cao đức thường tới lui, tai nghe mắt nhiễm, mà con gái tâm tư lại an tịnh, ứng đối lẹ nhanh, cho nên đối với cuộc pháp chiến nhận định bén nhạy hơn Tô Đông Pha nhiều. Có thể giữa anh em họ, so sánh về cơ phong thì chưa biết lộc chết về tay ai?

Tô Đông Pha chế giễu trán vồ của Tiểu Muội bằng bài thơ:

Gót sen chưa khỏi khuê phòng

Trán vồ ra đến họa đường từ lâu.

Tiểu Muội ứng tiếng giễu lại Tô Đông Pha mặt dài:

Năm rồi mấy giọt lệ buồn

Đến nay chưa đến cuối khuôn mặt dài.

So ra thì câu thơ của Tiểu Muội độc hơn, vì trán vồ đến họa đường chẳng qua chỉ mấy trượng thôi, còn lệ chảy cả năm chưa đến cằm, quý vị tính thử xem đến bao nhiêu dặm?

Ở trên, xem qua các điểm, Thiền Tông trong bụng Tô Đông Pha chỉ là hổ lốn. Màu tía của ông ta chỉ là củi lò, Tế hồng Tân tuyền xem ra đều là eo đá đỉnh giả, Thử Am là người có mắt biếc thụ cùng hoành biến, làm sao mà gạt được? Vì thế vừa nghe Chứng Ngộ nêu lên bèn biết Tô Đông Pha là từ tâm cơ ý thức làm ra, đoán định ông ta là “tên ngoài cửa”. Nhưng Chứng Ngộ Pháp sư suy nghĩ suốt đêm, nghe chuông lại hoát nhiên, rốt ráo ông ấy thấy được đạo lý gì? Điều này thiệt muôn lần không thể bỏ qua được. Nguyên lai lịch trình trong cảnh ngộ của Thiền Tông, Cổ đức có câu: “Đại ngộ 18 lần, tiểu ngộ không kể số”. Tuy nhiên, không phải ai ai cũng giống nhau, nên biết rằng tông hạ phân biệt có ba giai đoạn: Sơ quan, Trùng quan và Mạt quan. Nếu ở giáo hạ có “Văn” sở thành huệ, “Tư” sở thành huệ và “Tu” sở thành huệ, thì “Bác học” của Nho gia hơi đồng với Văn sở thành huệ, “Thận tư”, “Minh biện” hơi đồng với Tư sở thành huệ, “Đốc hành” hơi giống với Tu sở thành huệ. Vì thế hành nhân có chỗ tỏ ngộ phải ngộ đến triệt để mới là đại hưu đại hiết. Việc tham học đã xong, như giữa đường ngừng lại ở lương đình, bèn chẳng phải về nhà có lúc ngồi yên. Đại thiện tri thức gặp người ham ngoạn cảnh sắc, đặc biệt chỉ cho đường về, sách tấn hướng thượng, mỗi mỗi hướng người ấy vận chuyển then máy, đó là yếu mục của Thiền môn.

Chứng Ngộ Pháp sư nguyên không phải là vị Thiền đức tầm thường. Lúc đầu Sư nương theo Bạch Liên Tiên Pháp sư hỏi về đạo cụ biến, Tiên chỉ hàng đèn nói: “Như đèn này, lìa tánh dứt lỗi, vốn tự vắng lặng, lý thời đầy đủ vậy. Lục phàm tứ thánh, chỗ thấy chẳng đồng, biến thời tồn tại vậy”. Sư không khế hội. Sau nhân quét đất nghe tụng Kinh Pháp Hoa đến chỗ “Biết pháp thường không tánh, giống Phật khởi từ duyên” mới hiểu ý chỉ. Nói cho Tiên, Tiên cho là đúng. Từ khi lãnh đồ chúng về sau thường lo người học bản tông lầm theo chữ nghĩa, đến như Thiên Thai truyền thừa là cái học văn tự, Nam tông rất coi thường. Nhơn đó đến gặp Thử Am, bỗng khen bài kệ của Đông Pha, Thử Am thừa cơ quét sạch, đẩy Sư vào trong chót sừng trâu, khiến Sư suốt đêm nghi ngờ, đến chỗ đường nói nghĩ dứt. Khi hiện nghiệp lưu thức không còn hiện hành nữa, bỗng nghe tiếng chuông hoát nhiên đại ngộ, tức thời hư không vụn nát, đại địa lặng chìm, chứng được sum la vạn tượng đều không tự tánh, tất cả như huyễn chỉ từ duyên sinh. Thế thì, vì khe là huyễn nên khe không phải là khe, tiếng lại căn cứ vào đâu? Đặt trên tướng “Quảng trường thiệt” khác nào nói người si nằm mộng. Núi cũng là huyễn thì không phải núi, núi không là núi thì sắc từ đâu hiển bày mà gọi là “Thanh tịnh thân”? Như vậy há chẳng phải kẻ khờ vẽ rắn thêm chân sao? Vì thế Sư đối với chỗ này bất giác buột miệng nói:

Cư sĩ Đông Pha thật lắm lời

Thanh sắc tầm thường muốn ví thân

Khe nếu là thanh, núi là sắc

Núi không, nước cạn khéo trêu nhân.

Bấy giờ Sư mới đúng là kẻ chân đạp lên đất (Cước căn điểm địa hán).

Người xưa đối với công án này, nêu ngược lại: “Anh chàng ấy nghĩ suy suốt cả đêm mới nói sảng, là tên ngoài cửa Đông Pha, đúng là tên đó chưa tới cửa”. Ở đây Thử Am khẳng định chỗ của Chứng Ngộ là: “Trước đây những gì ông nói đều là của bọn ngoài cửa”. Rằng: Nói ra là thưởng hay là phạt? Chớ nhận lầm! Phàm như thế là hàm chứa diệu dụng đoạt lấy tri giải của người học. Nhân vì Thiền Tông kỵ tri giải, khán công án chẳng từ người mà được, hiểu rõ ràng qua giấy mực, kia là giáo tướng, mảy may không quan hệ với việc bổn phận. Vì thế bậc Cổ chùy nói ra, tất yếu phải sinh nghi. Nghi thì tham! Tham thì phá. Cho nên nói: “Tiểu nghi tiểu ngộ, đại nghi đại ngộ, chẳng nghi chẳng ngộ”.

Chứng Ngộ bị Thử Am dồn đến thở chẳng ra hơi, cả đêm phát phẩn nghi ngờ mới được “liếc mắt thấu suốt”. Cho nên Am mới khẳng định cho. Về sau có người sửa lợp điện Mã Tổ, cầu xin Chứng Ngộ mấy lời phát dương. Chứng Ngộ viết rằng:

Gởi đến Giang Tây lão cổ chùy

Từ khi “Nhật chích với phong xuy”

Chẳng phải cháu con không coi ngó

Phải thấy “Băng tiêu ngõa giải thì”.

Thử Am thấy những lời này cười nói: “Phải là A-xà-lê ấy mới được như thế!” Lời này có thể nói là rồng từ ngàn dặm đến kết huyệt của bài văn này.

(Trích Cát Đằng Tập)
Dung Hy Pháp sư

Thích Minh Cảnh. (dịch)

Tu viện Huệ Quang