II. TRỌNG TÂM PHẬT PHÁP – HẠT NHÂN PHẬT PHÁP: PHÁP MÔN NIỆM PHẬT.
1. Vui vẻ học tập – Học để ứng dụng.
Chúng ta biết rằng, Đức Phật thuyết pháp nhất định phải hợp với căn cơ của chúng sinh. Nói cách khác, nhất định phải khiến cho chúng sinh hiện tại được lợi ích nhất, tốt đẹp nhất. Giáo trình của thế gian cũng phải tuân thủ nguyên tắc “học để ứng dụng”. Nếu như những điều đã học không dùng được trong đời sống thì học thuật này không chân thật. Thật ra, Phật pháp hiện thực hơn loại học thuật này. Những điều mà Phật giáo dạy chúng ta nhất định phải có được lợi ích, được sử dụng ngay trong hiện tại. Nếu không thì ta học Phật pháp để làm gì? Vì căn tính, trí huệ, sở thích của mỗi chúng sinh không giống nhau, Đức Phật nói pháp cũng sẽ vô lượng vô biên. Pháp môn vô lượng vô biên, giống như có nhiều phân khoa trong trường học, mục đích là để thích hợp với nguyện vọng không giống nhau của học sinh. Nhờ đó, học sinh tu học mới có thể cảm nhận được sự hứng thú.
Cổ nhân Trung Quốc nói: “Đọc sách là niềm vui”, ý nói trong học tập có niềm vui. Học sinh thời hiện đại, học tập cảm thấy rất khổ sở, thậm chí bị ép học những điều không giống như sở thích và niềm say mê của chính mình, học tập kiểu này thì sẽ không được niềm vui. Phật pháp là tùy theo sự hoan hỷ và nguyện vọng chính mình, tu học pháp môn gì thì Đức Phật sẽ nói cho chúng ta pháp môn ấy. Đây là trí huệ và lòng từ bi vô lượng của Đức Phật.
Tất cả pháp môn mà Đức Phật đã nói, không cần chúng ta phải học toàn bộ. Ngay trong những phân khoa mà nhà trường đã mở, không phải là tất cả học sinh đều học hết. Đó là để bạn ngay lúc học, lựa chọn phân khoa mà mình yêu thích.
Đương thời, Đức Thế Tôn dạy học không có vấn đề chọn lựa khoa, bất cứ học trò nào thỉnh giáo, Đức Phật đều có năng lực quán sát căn tính và hoàn cảnh hiện tại của học trò, gồm cả đời quá khứ, hiện tại, vị lai của họ, Đức Phật đều biết. Vì vậy, Đức Phật thuyết pháp rất khế cơ, chỉ mấy lời khai đạo, học trò đã khai ngộ, hiểu rõ. Những ví dụ đó, chúng ta đã thấy rất nhiều trong kinh điển.
2. Kết tập và dịch kinh điển Phật.
Sau khi Đức Phật Niết-bàn, những học trò nhận thấy việc dạy học của Ngài có lợi ích rất lớn đối với chúng sinh và xã hội nhân loại. Nếu như những sự dạy dỗ này thất truyền thì thật đáng tiếc. Bấy giờ, các vị ấy liền đem bao lời dạy của Đức Phật đương thời, kết tập thành sách lưu truyền cho đời sau. Thuở ấy, Đức Phật dạy học không có sách giáo khoa, học trò cũng không có ghi chép vào nơi nào cả. Khi ấy, mọi người đặc biệt lễ thỉnh tôn giả A-nan[16] kết tập kinh điển. Tôn giả A-nan là người hầu Phật, thời gian theo Đức Phật lâu nhất. Trong học trình 49 năm của Đức Thế Tôn, ngài là người nghe Phật pháp hoàn chỉnh nhất. Thế là, Đức Thế Tôn liền giao cho tôn giả A-nan một sứ mệnh, muốn tương lai ngài phụ trách việc kết tập kinh điển.
Sức nhớ của tôn giả A-nan rất mạnh mẽ, ngài có khả năng trùng tuyên lại một lượt những lời kinh mà Đức Phật đã nói lúc ấy một cách rất hoàn chỉnh, không sai lầm. Khi kết tập kinh điển, mọi người liền đề cử ngài A-nan giảng lại, và chọn một số người để ghi chép. Mặt khác, có năm trăm vị A-la-hán đều là học trò của Đức Thế Tôn thời bấy giờ, nên thỉnh các ngài đến chứng minh. Những điều mà ngài A-nan đã giảng, nếu như có người đề xuất ý kiến: Câu nói này nên lược bỏ thì cần phải có mọi người đều đồng ý, đều tán thành. Như vậy, mới có thể được ghi chép lại thành kinh điển.
Câu đầu tiên trong kinh điển: “Tôi nghe như thế này”. “Tôi” là ngài A-nan tự xưng, chính ngài nghe Đức Phật thuyết pháp. Đức Phật nói thế nào thì ngài A-nan giảng như thế ấy. Sau khi ghi chép lại như vậy, gọi là kinh điển. Sự kết tập kinh điển, hết thảy có bốn lần. Lần thứ nhất, do tôn giả A-nan kết tập. Điều này không nói, lần kết tập sau cùng cách Đức Phật diệt độ 400 năm. Ai mà có sức nhớ tốt như thế? Khi ấy những kinh điển được lưu truyền lại, khó tránh khỏi có một số vấn đề tồn tại. Những vấn đề này đều là những điều mà chúng ta cần phải biết. Nếu người học khéo hiểu, nắm vững nguyên tắc, nắm vững cương lĩnh chung thì không có những sai lầm to lớn. Ngược lại, người không hiểu sẽ chấp trước kinh văn, chấp trước văn tự rất khổ sở.
Vận pháp của Phật có ba giai đoạn: Chính pháp, Tượng pháp, Mạt pháp.
Thời kỳchính pháp: Một nghìn năm sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn. Những nguyên tắc được lưu truyền, hướng dẫn mọi người tu học trên đại thể đều không có sự sai lầm. Vì vậy, người tu học đều có thể đoạn trừ phiền não, khai trí huệ, chứng quả vị.
Thời kỳ Tượng pháp: Một nghìn năm. Phật pháp càng truyền càng sai. Phật pháp sai lầm lẫn lộn trong đó đã dần dần biến chất. Phật pháp truyền đến Trung Quốc đúng một nghìn năm sau khi Đức Phật diệt độ, cũng chính là thời kỳ cuối củachính pháp, và là thời kỳ đầu của Tượng pháp. Những bậc đại đức Tổ sư thời xưa ở Trung Quốc từ trong công tác phiên dịch kinh điển, bất luận trong giao thông, nhân tài, vật lực, in ấn và lưu thông, đều có sự hạn chế rất nhiều, nhưng các ngài đã khắc phục được những khó khăn ấy, phiên dịch kinh điển Phạn văn thành Trung văn. Công việc này bắt đầu từ đời Hậu Hán mãi đến triều Tống, kéo dài tám trăm năm. Từ đời Tống về sau, số lượng kinh điển được phiên dịch đã ít hơn. Trong lúc ấy, số lượng kinh văn tiếng Phạn ở Ấn Độ được truyền đến Trung Quốc rất nhiều. Một phần là do những vị cao tăng ở Ấn Độ mang đến Trung Quốc để truyền bá; mặt khác là do các vị đại đức ở Trung Quốc đến Ấn Độ du học mang về. Người phiên dịch thành tựu nổi bậc nhất là đại sư Huyền Trang. Các ngài đã mang về nhiều kinh điển tiếng Phạn, và còn chọn những kinh điển hay nhất trong số đó, thích hợp nhất với sự tu học của người Trung Quốc để phiên dịch. Vì vậy vẫn còn nhiều kinh điển chưa được dịch ra. Đại Tạng kinh của Trung Quốc hầu hết không phải là toàn bộ kinh điển mà Đức Phật Thích-ca đã nói trong bốn mươi chín năm. Chỉ có thể nói là tinh hoa của tất cả kinh mà Đức Phật đã nói trong bốn mươi chín năm.
Người học Phật thường có một số nghi vấn: Kinh điển tiếng Phạn ban đầu, vì sao không được bảo tồn lưu truyền cho đời sau, mà chỉ bảo lưu bản dịch của Trung hoa? Nguyên văn bản Phạn vì sao lại mất?
Trong quá khứ, tôi đã từng thắc mắc với tiên sinh Phương Đông Mỹ: “Kinh điển tiếng Phạn đã đến nơi nào rồi?” Ngài bảo tôi: “Bản dịch Trung văn siêu việt hơn bản Phạn văn, ý tứ bản dịch được dịch rất chính xác, kỹ xảo biểu đạt văn tự cũng hay, đẹp hơn bản Phạn. Lòng tự tin của cổ nhân Trung Quốc rất mạnh, kinh Phật chỉ đọc bản dịch tiếng Trung Quốc, chứ không cần đọc bản văn tiếng Phạn”. Khẩu khí này lớn biết bao! Nghĩ xem, nó cũng đầy đạo lý.
Phương tiên sinh nói thế, tuy không nói ra căn cứ, nhưng nói rất hay, đã giải đáp vấn đề của chúng ta. Vì vậy, đối với bản dịch tiếng Trung Quốc, chúng ta nhất định phải có lòng tin. Đương nhiên bản dịch cũng có phần ưu liệt, hay và dở. Đạo tràng mà có nhiều nhân tài, trình độ văn học đạt đến chỗ sâu xa thì kinh được dịch rất hay, ngược lại sẽ dở. Chúng ta mở lần lượt Đại Tạng kinh ra thì có thể thấy.
Cùng một bản văn Phạn, cũng được phiên dịch nhiều lần. Ví dụ kinh Kim Cang cũng có sáu bản dịch giống nhau. Hiện thời những bản dịch được lưu hành rộng nhất là bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập[17]; Bát-nhã Tâm kinh cũng có mười mấy bản dịch nhưng nội dung đều không khác nhau bao nhiêu. Bất kỳ bản dịch nào cũng hay, cũng rất hiếm có. Nếu như chúng ta làm công tác nghiên cứu mà không phải là tu học thì có thể y cứ vào một bản dịch làm chủ yếu, còn lấy những bản dịch khác để tham khảo. Điều này có thể khiến cho chúng ta có thể lý giải đầy đủ ý nghĩa kinh. Được nhiều bản dịch đối với người theo công việc nghiên cứu, là có sự giúp đỡ rất lớn.
3. Tính tất yếu và nguyên tắc cần tuân thủ của việc hội tập bản kinh Vô Lượng Thọ.
Kinh điển chủ yếu nhất của pháp môn Tịnh Độ là kinh Vô Lượng Thọ. Căn cứ vào sự khảo chứng của bậc đại đức ngày xưa, Phật đã nhiều lần tuyên giảng kinh Vô Lượng Thọ. Tất cả kinh, Phật nói chỉ một lần. Nếu như bộ kinh này không quan trọng thì Phật không nói nhiều lần. Như vậy, kinh Vô Lượng Thọ từ thời Hậu Hán đến giữa triều đại Tống, từng được phiên dịch qua mười hai lần. Do vì những kinh sách thời cổ đại không dễ gì gìn giữ, trong đó bảy loại đã thất truyền, chỉ còn lại năm loại. Hiện giờ đã đưa vào Đại Tạng kinh. Bản dịch của năm loại này không giống nhau, nội dung thêm bớt rất nhiều. Từ đó có thể đoán được không phải chỉ có một nguyên bản Phạn. Tuy nhiên, dù có nhiều cách phiên dịch khác nhau, cũng không đến nỗi thoát ra quá lớn. Sự thoát ra quá lớn có thể đoán không phải chỉ một lần tuyên giảng mà là đã giảng nhiều lần. Do vậy có thể biết, kinh Vô Lượng Thọ có nguyên bản Phạn không giống nhau. Đây là điều mà chúng ta phải đặc biệt chú ý!
Từ điểm này, chúng ta hiểu được, Đức Thế Tôn giáo hoá chúng sinh, đặc biệt dụng tâm đối với pháp môn Niệm Phật của tông Tịnh Độ. Đương nhiên đối với pháp môn này thì đặc biệt thù thắng.
Trong kinh Pháp Diệt Tận, Đức Phật đã nói, tương lai mạch pháp của Đức Phật, sau mười hai nghìn năm, những kinh điển đã có hoàn toàn tiêu mất hết, kinh Vô Lượng Thọ vẫn còn lưu lại một trăm năm. Sau một trăm năm, kinh Vô Lượng Thọ cũng biến mất. Hồng danh sáu chữ “Nam-mô A-di-đà Phật” còn lưu lại một trăm năm. Do đó có thể biết công đức lợi ích của danh hiệu Phật không thể nghĩ bàn. Trong thời kỳ đó, chúng sinh nào có thể nghe câu danh hiệu này, niệm tụng câu danh hiệu này, đều có thể đạt được lợi ích thật sự. Đây là điểm thù thắng nhất của tông Tịnh Độ trong tất cả pháp môn.
Bản dịch của kinh Vô Lượng Thọ rất nhiều nên sự thêm bớt ấy lớn biết bao. Trên phương diện tu học của người xưa đã nảy sinh ra sự khó khăn, có một số ý bản này có, bản kia không. Có một số ý bản này không, bản kia có, cần phải đọc qua năm bản dịch thì nghĩa kinh mới có thể viên mãn. Nhưng muốn có được cả thảy năm bản dịch trong thời cổ đại rất khó. Thế nên, người xưa mới nghĩ ra cách làm bản hội tập.
Bản hội tập lần thứ nhất là do cư sĩ Vương Long Thơ triều Tống, được đưa vào trong Đại Tạng kinh, với tên là “kinh Đại A-di-đà”. Bản của cư sĩ Long Thơ là bản hội tập của bốn bản dịch nguyên tác, không có bộ “Vô Lượng Thọ Như Lai hội” trong kinh Đại Bảo Tích, được dịch vào đời Đường. Bộ kinh trong bản dịch ở đời Đường này có một số văn kinh quan trọng, mà trong bốn bản dịch kia đều không có. Vì vậy, bản hội tập của cư sĩ Long Thơ, nghĩa kinh vẫn chưa hoàn chỉnh. Đây là sự việc rất đáng tiếc. Cư sĩ Long Thơ tu hành rất thành tựu, ông đứng niệm Phật mà vãng sinh. Sự hiện thân thuyết pháp ấy minh chứng đầy đủ cho chúng ta thấy. Do đây có thể biết hội tập là điều cần thiết. Đối với sự kế thừa của tông Tịnh Độ, cư sĩ có một sự cống hiến nhất định.
Hội tập lần thứ hai là do cư sĩ Bành Tế Thanh, vào khoảng niên hiệu Càn Long, triều Thanh. Ông xuất thân từ dòng quý tộc, rất thông minh. Tuổi còn nhỏ đã đỗ tiến sĩ và đã có sự thành tựu nổi bật trong Phật pháp, quả thật là Bồ-tát hiện thân trở lại. Ông chọn bản của ngài Khương Tăng Khải[18], cắt bớt những chỗ khó đọc, trùng lặp, làm thành một quyển rõ ràng chi tiết. Ông lại chú giải cho quyển sách này tựa đề là “Vô Lượng Thọ kinh Khởi Tín Luận”.
Hội tập lần thứ ba do cư sĩ Ngụy Nguyên, vào giữa niên hiệu Hàm Phong triều Thanh, ông hội tập cả năm bản dịch, hoàn chỉnh hơn so với bản của cư sĩ Vương Long Thơ. Đây là bản hội tập rất tốt.
Các vị có thể xem trong “Ấn Quang pháp sư Văn sao”. Đại lão pháp sư Ấn Quang đều có lời phê bình đối với bản dịch của cư sĩ Ngụy Nguyên và Vương Long Thơ, nhưng quan sát kỹ, lão pháp sư hoàn toàn không phải phản đối sự hội tập mà là phản đối những chỗ không đúng. Những chỗ nào không đúng? Hội tập và dịch kinh không giống nhau. Dịch kinh có thể y cứ kinh văn, dùng ý của mình châm chước câu, từ, còn hội tập thì không được thế. Điều quan trọng của hội tập là lấy nguyên văn của kinh, không thể thay đổi một chữ. Hai vị cư sĩ thật là học gia đại học, thế pháp, Phật pháp đều thông suốt. Cư sĩ Vương Long Thơ sửa đổi nguyên văn khá hay. Còn cư sĩ Ngụy Nguyên sửa đổi cũng không có vấn đề. Nhưng pháp sư nói: “Nếu như được phép như vậy, người sau không hiểu rõ, cũng tùy tiện sửa đổi. Kinh Phật lưu truyền đến đời sau còn có thể xem được sao? Lại sửa đổi kinh văn”. Ví dụ này không được triển khai. Năm bản dịch nguyên tác có thể tập hợp lại biên tập bản mới, nhưng không thể động đến một chữ, điều này rất quan trọng. Sự việc này các vị hãy xem bản hội tập của cư sĩ Hạ Liên Cư trong bài văn tựa, Lão cư sĩ Mai Quang Hy nói rất rõ, hội tập là không thể sửa lại một chữ.
Hội tập lần thứ tư là do lão cư sĩ Hạ Liên Cư, vào Dân quốc năm thứ nhất (1911), cư sĩ Hạ đã bế quan ba năm hoàn thành bản hội tập này. Đoạn văn kinh Đức Phật A-di-đà phát 48 đại nguyện trong phần “Phát đại thệ nguyện”, phẩm thứ sáu của kinh Vô Lượng Thọ, đương thời do Hoà thượng Huệ Minh là người của Thông Tông, Thông giáo, cùng với cư sĩ Mai Quang Hy và Hạ Liên Cư, ba người đồng hợp tác làm. Họ phải mất thời gian ba tháng mới tập hợp xong đoạn kinh văn này. Do đó, chúng ta có thể hiểu được dụng tâm và sự cẩn thận của các ngài.
Sau khi bản hội tập ra đời, người hưởng ứng đầu tiên là pháp sư Từ Chu, ngài rất khâm phục bản hội tập này, hơn nữa còn làm bài phê và lời tựa cho bản hội tập. Bản hội tập đương thời chỉ phân làm 37 phẩm, bản hiện giờ là 48 phẩm. Đây là những phẩm sau này được sao lục và tu sửa đính chính. Mười năm mới tu sửa thành một bản cố định hiện tại. Đây là bản do cư sĩ Hạ Liên Cư đã dùng công phu mười năm để hoàn thành, quả thật không dễ dàng! Đáng tiếc là pháp sư Ấn Quang không thấy được. Nếu như ngài thấy được, có lẽ sẽ gật đầu nói: “Bản hội tập này thật tuyệt vời”. Lỗi hội tập của người xưa hoàn toàn không có, có thể lưu hành. Thật là mỗi chữ mỗi câu đều là nguyên văn, không thay đổi một chữ nào.
Hơn nữa việc lấy bỏ đều rất thỏa đáng, đích xác là sự tập đại thành lớn lao của năm bản dịch nguyên tác. Các vị đại đức đương thời, đều cho rằng bản này là bản tốt nhất của kinh Vô Lượng Thọ.
Pháp sư Từ Chu là vị đại đức rất có địa vị ở đại lục Trung Quốc. Ngài giới luật tinh nghiêm, đi đến khắp nơi giảng kinh, hoằng pháp lợi sinh. Ngài có hai vị học trò ở Đài Loan, chính là pháp sư Sám Vân và hoà thượng Đạo Nguyên được mọi người tôn kính.
Nếu cho rằng bản hội tập của cư sĩ Hạ có vấn đề, nhưng sư phụ của hai vị hoà thượng Đạo Nguyên và pháp sư Sám Vân đều thừa nhận bộ kinh này, còn làm bài phê cho bản kinh thì còn có vấn đề gì nữa? Vì vậy, chúng ta phải nên có đủ lòng tin sâu sắc đối với bản kinh này. Đây là pháp bảo chính xác, trước mắt chúng ta không thể bỏ lỡ.
Hơn ba mươi năm hoằng pháp, tôi đã giảng những bộ kinh như: kinh Hoa Nghiêm, kinh Lăng-nghiêm, kinh Kim Cang. Sau khi thầy Lý vãng sinh, tôi mới bắt đầu giảng bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ do chính mình thể nghiệm được, giảng kinh Hoa Nghiêm, sở đắc không bằng giảng kinh Vô Lượng Thọ. Tôi cảm nhận sâu sắc công đức hoằng dương kinh Vô Lượng Thọ không thể nghĩ bàn, được lực gia trì của chư Phật không thể nghĩ bàn, công đức tiêu trừ nghiệp chướng không thể nghĩ bàn. Vì vậy, lòng tin của tôi đối với bộ kinh này càng sâu sắc hơn, tu học theo bộ kinh này mà tiêu trừ nghiệp chướng, được lợi ích rất nhiều. Người được vãng sinh, điềm lành rất tốt, đủ để minh chứng công đức của bộ kinh này, quả thật là sự gia trì, oai thần của mười phương chư Phật Như Lai.
Nếu như chúng ta nảy sinh sự hoài nghi đối với bản hội tập này, không thể tiếp nhận, đó là vì thiện căn, phước đức ta quá ít. Nếu như không thể tiếp nhận, thì cũng phải đọc hết năm bản dịch nguyên tác. Như thế mới có thể đạt được nghĩa kinh hoàn chỉnh của kinh Vô Lượng Thọ. Bản hội tập của cư sĩ Hạ Liên Cư là sự tập đại thành của năm bản dịch nguyên tác. Điều này chúng ta phải nhận thức rõ ràng. Bản hội tập nơi hải ngoại, đại lục Trung Quốc đã được lưu hành trên toàn thế giới đều không chướng ngại. Vì vậy, nhờ đọc bản hội tập mà người niệm Phật rất nhiều. Đây là hiện tượng rất tốt, chúng ta thấy Phật pháp rất có tiền đồ, thật là rạng rỡ.
4. Pháp môn niệm Phật chẳng phải điều mà người tầm thường có thể tin.
Nội dung của kinh Vô Lượng Thọ, Đức Thế Tôn giới thiệu rõ ràng cho chúng ta về hiện thực của thế giới Tây phương Cực Lạc, có lý luận, có sự thật, có nhân, có quả, đầy đủ mọi mặt được Ngài giới thiệu khá hoàn thiện. Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật là bổ sung cho kinh Vô Lượng Thọ, đặc biệt là bổ sung cho phương pháp tu học. Phương pháp tu học của kinh Vô Lượng Thọ chỉ nói giản lược cương lĩnh của “ba bậc vãng sinh”. Quán kinh giảng cho chúng ta “ba bậc chín phẩm” dạy chúng ta phương pháp niệm Phật như: Quán tưởng niệm Phật, Quán tượng niệm Phật, Trì danh niệm Phật. Những phương pháp trên được giảng rất tỉ mỉ, giới thiệu rõ nhân quả của chín phẩm, và nguyên lý vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc: “Tâm này làm Phật, tâm này là Phật”.
“Vãng Sinh Luận” là báo cáo tâm đắc tu học kinh Vô Lượng Thọ của Bồ-tát Thế Thân. Phương pháp niệm Phật của ngài là chọn dùng “năm pháp môn niệm Phật”. Năm pháp môn này có được từ kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật. Nội dung của pháp môn ấy là:
1. Lễ Phật.
2. Tán thán.
3. Tác nguyện.[19]
4. Quán sát, không phải là “quán tưởng” mà là “quán sát”( Sát là hiểu rõ ràng, ý tứ càng sâu sắc).
5. Hồi hướng.
Bồ-tát Thế Thân niệm Phật, mỗi mỗi câu danh hiệu Phật đều có đầy đủ năm ý này. Ngài do tu học năm pháp niệm này mà thành tựu. Sau đó truyền đến Trung Quốc, Pháp sư Đàm Loan[20] chọn lấy pháp môn này. Đại sư Thiện Đạo[21] không những chọn mà còn hoằng dương pháp môn này.
Phương pháp lý luận tu học của tông Tịnh Độ, đến đây đã khá đầy đủ. Bộ kinh sau cùng mà Đức Phật nói là kinh A-di-đà, mục đích Ngài muốn khích lệ chúng ta phải tu học pháp môn niệm Phật. Trong kinh A-di-đà, Đức Thế Tôn đã bốn lần khích lệ, có thể cho thấy tấm lòng ân cần khuyên bảo của Ngài đối với chúng ta. Quả nhiên chúng ta đã giác ngộ, nghe lời Đức Phật, chọn lấy pháp môn niệm Phật. Chân thành niệm Phật, một đời này nhất định sẽ thành Phật.
Đây là phương pháp “hiện đời thành Phật”, không cần quanh co vòng vèo. Tuy Đức Phật sách tấn khích lệ thiết tha khuyên bảo như thế, nhưng người học Phật được mấy ai tiếp nhận, chịu tin tưởng? Tại sao Đức Phật khuyến thỉnh như thế, mà mọi người vẫn không tiếp nhận? Điều này Đức Phật đã giảng rất rõ. Vì pháp môn niệm Phật là “pháp khó tin”. Nếu Đức Phật vừa khuyến thỉnh, mọi người liền tin ngay thì sao gọi là “khó tin”? Đức Phật khuyên như thế, chúng sinh vẫn không tin. Đó mới gọi là “khó tin”! Vì vậy, thông thường mới nghe khuyên mà có thể tin ngay, người này không phải là hạng tầm thường. Trong kinh Vô Lượng Thọ, Đức Phật nói: “Người này không phải phàm nhân”. Những người mà có thể tiếp nhận, chắc chắn đã có căn lành tu tập tích chứa trong vô lượng kiếp đến nay, phước đức vô lượng vô biên. Đời này gặp pháp môn này, căn lành thành tựu, hoàn toàn tiếp nhận. Thật tương ưng với câu được nói trong kinh A-di-đà: “Không thể dùng một ít nhân duyên, phước đức, thiện căn mà được sinh về cõi nước kia”.
Trong kinh A-di-đà nói “không thể nhờ một ít căn lành”. Chúng ta không biết mức độ căn lành nhiều đến mức nào? Nhưng xem trong quyển kinh Vô Lượng Thọ, vương tử A-xà-thế[22] cùng năm vị trưởng giả, vô lượng kiếp trong quá khứ từng cúng dường bốn trăm ức Phật. Thiện căn sâu dày như thế, mà khi gặp được kinh Vô Lượng Thọ, họ vẫn không chịu phát nguyện cầu xin về thế giới Tây phương Cực Lạc, chỉ phát nguyện: “Tương lai con thành Phật cũng sẽ giống như Đức Phật A-di-đà”.
Hiện giờ chúng ta khuyên một người niệm Phật. Nếu anh ta có thể không hoài nghi, lập tức tiếp nhận thì biết rằng căn lành anh ta đã tích lũy từ thời quá khứ, hơn sự cúng dường bốn trăm ức Phật. Thiện căn chưa thành thục, không cách nào tin Tịnh Độ, Đức Phật cũng không có biện pháp giúp đỡ cho; được căn lành thành thục có thể tin Tịnh Độ, điều này quả thật không thể nghĩ bàn!
Khi căn lành của bạn thành thục, không chỉ bổn nguyện của Đức Phật A-di-đà gia hộ bạn mà cả mười phương chư Phật, vị nào cũng gia hộ bạn. Hiện giờ trong hội này, mọi người nghe đều hoan hỷ, không phải vì tôi giảng hay, nên các vị mới hoan hỷ, mà là nhờ hào quang Phật gia trì; cũng chính là từ trường của chư Phật gia hộ chúng ta, để chúng ta vào đạo tràng liền sinh tâm hoan hỷ. Trong kinh thường nói, y báochính báo của thế giới Tây phương trang nghiêm, bậc Bồ-tát Đẳng giác hoàn toàn không cách nào hiểu rõ. Nếu như không được Phật lực gia hộ thì Bồ-tát cũng không thể nói, hạng phàm phu kém cỏi như chúng ta làm sao nói được.
Có thể nói, có thể nghe, đều do lực Phật gia hộ, đều là do căn lành thành thục từ vô lượng kiếp đến nay của mình. Đây là nhân duyên rất khó được, hiện tiền căn lành, phước đức, nhân duyên của chúng ta đầy đủ, như kinh A-di-đà ghi: “Không thể nhờ chút căn lành, phước đức, nhân duyên mà được sinh về cõi nước kia”. Ba điều này, chúng ta đều có đủ thì nhất định được sinh về Tịnh Độ.
Chúng ta phải quý tiếc cơ hội này, pháp duyên này, vì phàm phu chúng ta tập khí phiền não rất nặng, sẽ xoay chuyển theo cảnh giới. Nếu như không bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển thì một đời này quyết định thành tựu. Bị cảnh chuyển chính là tâm không làm chủ được mình, phải chịu sự mê hoặc của ngoại cảnh: tiền của, sắc đẹp, tiếng tăm, uống ăn và ngủ nghỉ. Tuy có căn lành phúc đức, nhưng do nhân duyên không tốt nên vẫn không thể vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc. Tập khí của chúng ta rất nặng, làm thế nào không bị ngoại cảnh mê hoặc? Chúng ta phải tiếp nhận sự khuyến cáo của Tổ sư. Tổ sư hướng dẫn chúng ta “Thâm nhập một môn, tu tập lâu dài”.Và theo một thầy chuyên tu một pháp môn, như vậy chúng ta mới nắm vững.
Then chốt của tu học Phật pháp ở chỗ “chuyên tinh”, không thể xen tạp, vừa xen tạp thì đã hư rồi. Những bạn đồng tu thời hiện đại, mang chứng bệnh chung, là tạp loạn: Tạp tu, loạn tu. Ngay như việc học trong trường có rất nhiều bộ môn, giờ này nghe môn này, giờ học sau nghe môn khác. Nghe như thế đến bốn trăm năm cũng không tốt nghiệp. Vì không chuyên nhất. Nếu như chuyên nhất một bộ môn, thì bốn năm sẽ tốt nghiệp, học vị sẽ nắm chắc trong tay. Còn không chuyên nhất, môn nào cũng muốn học, môn nào cũng muốn nghe, môn nào cũng muốn tiếp xúc, xào nấu thành một thứ lộn xộn. Thế thì đã hư rồi. Đây là căn bệnh chung của người học Phật thời hiện đại. Cương lĩnh chung của Phật pháp là ba môn học: Giới- định-huệ. Định là then chốt (Định là pháp môn đầu tiên) nhưng chúng ta đã lơ đãng. Đó là nguyên nhân chúng ta đã bỏ phí rất nhiều thời gian, tinh lực mà không có được sự thành tựu. Bây giờ đã hiểu rõ, chúng ta cần phải nhìn lại. Ngày xưa tôi ở Đài Trung cầu học. Thầy Lý đã khiêm tốn nói: “Năng lực của tôi chỉ có thể dạy ông năm năm”. Thầy khuyên tôi đến học với pháp sư Ấn Quang, nhưng Ấn Tổ đã không còn, làm sao học với ngài?
Tôn thờ tổ làm thầy, tôi chuyên đọc “Ấn Quang pháp sư Văn sao ”, chuyên tu theo lời dạy của ngài, Tổ Ấn Quang dạy người rất nghiêm. Có vị đệ tử đến chùa ở núi Linh Nham, tham bái Tổ, ngài mắng: “Ông chạy đến đây, lãng phí tinh thần, lãng phí tiền của, mau quay về mà thật tâm niệm Phật”. Ấn Tổ đã dạy người như thế. Tôi nghĩ đạo tràng của sư phụ mình không thể đi, thì đạo tràng ở nơi khác cũng không cần đi. Như thế, tâm mới có thể định, công phu niệm Phật mới có thể thành khối, mới có thể nhất tâm bất loạn. Nguyện vọng của pháp sư là mong mỏi chúng ta mai sau thật sự có thể vãng sinh, không phải đến để cho thêm phần náo nhiệt.
Học trò thời xưa ở Trung Quốc và học trò thời nay không giống nhau, xác thật là y chỉ một vị thầy, thành tựu dưới sự dạy dỗ của thầy. Những tông phái thiền tông thời xưa, đại triệt, đại ngộ, minh tâm kiến tính, học giáo lý phải thông suốt, hiểu rõ ràng mới có tư cách ra ngoài tham học. Nếu như không có đại triệt, đại ngộ, hiểu rõ thông suốt thì không có tư cách ra ngoài tham học, hãy thật thà theo thầy tham học, một bước cũng không được tách rời thầy. Cách dạy của Tịnh Độ tông và Thiền tông khác nhau. Tịnh Độ tông không có tham học. Dù cho niệm Phật, niệm đến lý nhất tâm bất loạn vẫn cứ thành tâm niệm. Ngoài một câu niệm “A-di-đà Phật” ra, vấn đề gì cũng không có. Trong chương: “Đại Thế Chí Bồ-tát niệm Phật viên thông”, cho chúng ta biết một câu “A-di-đà Phật” từ sơ phát tâm cho đến thành Phật đều “nhiếp sáu căn, tịnh niệm tương tục, không mượn phương tiện, tự tâm khai mở”, còn phải tham học cái gì nữa. Đây thật là điều thù thắng của tông Tịnh Độ.
Kinh Kim Cang, kinh điển nổi tiếng của Trung Quốc. Nội dung của kinh chính là hai vấn đề mà tôn giả Tu-bồ-đề[23] thỉnh giáo Đức Phật Thích-ca Mâu-ni.
1. “Làm thế nào hàng phục tâm mình?” Đây là vấn đề lớn lao, phàm phu chúng ta tâm tán loạn, vọng niệm rất nhiều, làm thế nào có thể hàng phục vọng niệm, khiến cho chúng ta đạt đến thanh tịnh?
2. “Làm thế nào an trụ tâm?” Tâm của chúng ta phải an trụ nơi nào? Đây là vấn đề mà người tu hành đều có. Kinh Kim Cang chính là giải đáp hai vấn đề này. Kinh Kim Cang là cương lĩnh chung của kinh Bát-nhã. Nếu như hai vấn đề này không được giải đáp thì kinh Kim Cang chỉ là đọc tụng suông. Nói cách khác, pháp môn Bát-nhã, nếu bạn không có duyên phận thì không có năng lực để tu học. Tịnh Độ tông giải đáp hai vấn đề này tốt nhất.
“Làm thế nào hàng phục tâm mình?”.
“Nam-mô A-di-đà Phật”. So với thiền tông giáo hoá thì đây là phương tiện dễ dàng cứu cánh, triệt để. Chỉ dùng một câu danh hiệu Phật, hàng phục vọng tưởng tạp niệm ngay.
“Nên trụ tâm như thế nào?”.
“Nam-mô A-di-đà Phật”. Thật đơn giản biết bao! Đem tâm an trụ trong danh hiệu Phật, quyết định không có sai lầm. Vấn đề mà tôn giả Tu-bồ-đề hỏi, Đức Thích-ca trả lời như thế, chúng ta càng nghe càng mê hoặc. Một câu “A-di-đà Phật” của tông Tịnh Độ đã giải đáp hoàn toàn. Tất cả vấn đề mà Thiền tông giáo hạ dạy, một câu “Nam-mô A-di-đà Phật” đã giải quyết toàn bộ sự việc. Từ đây có thể biết, công đức của danh hiệu Phật thật sự không thể nghĩ bàn. Đây là chỗ thù thắng không gì sánh bằng của pháp môn Tịnh Độ.
5. A-di-đà Phật là đỉnh cao của Phật pháp.
Vô Lượng Thọ kinh giải của cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, đem so sánh tất cả những pháp môn tu hành từ xưa đến nay mà Tổ sư đại đức đã thực hành viết ra khá rõ. Những bộ kinh mà các bậc đại đức xưa ở thời đại Tùy Đường đang cùng nghiên cứu so với tất cả bộ kinh mà Đức Phật Thích-ca đã nói trong 49 năm thì bộ nào thù thắng nhất? Bộ kinh nào đứng nhất? Mọi người đều công nhận kinh Hoa Nghiêm đứng nhất, kinh Hoa Nghiêm là cương lĩnh chung của tất cả pháp môn trong 49 năm Đức Phật Thích-ca đã nói. Giống như khái luận của sách học thời hiện đại. Kinh Hoa Nghiêm là Phật học khái luận, là pháp luân viên mãn nhất, kinh Hoa Nghiêm so với kinh Vô Lượng Thọ thì kinh Vô Lượng Thọ là bậc nhất. Bởi vì, kinh Hoa Nghiêm đến sau cùng, chỉ có mười đại nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền hướng dẫn quy về Cực Lạc mới viên mãn. Nếu như bốn mươi mốt pháp thân đại sĩ nơi thế giới Hoa Tạng không niệm Phật cầu vãng sinh Tịnh Độ thì kinh Hoa Nghiêm không viên mãn. Vì vậy, kinh Vô Lượng Thọ là điểm đến của kinh Hoa Nghiêm, là nơi tổng kết của kinh Hoa Nghiêm, là tinh hoa của kinh Hoa Nghiêm.
Cư sĩ Bành Tế Thanh đời Thanh nói: “Kinh Vô Lượng Thọ là kinh Hoa Nghiêm trung bản, kinh A-di-đà là kinh Hoa Nghiêm tiểu bản”. Lời nói này rất có lý. Tuy kinh văn có nhiều ít khác nhau, nhưng nội dung của kinh thì không có chút gì sai biệt.
Kinh Vô Lượng Thọ gồm có 48 phẩm, trong đó phẩm kinh nào là bậc nhất? Đó là 48 lời nguyện trong phẩm thứ sáu. Chúng ta hãy xem kỹ kinh Vô Lượng Thọ, từng chữ, từng câu đều nói rõ ràng về 48 lời nguyện. Nguyện nào bậc nhất trong 48 lời nguyện? Đó là lời nguyện thứ 18. Nội dung lời nguyện thứ 18 là: “Mười niệm chắc chắn sinh Tịnh Độ”, biểu thị công đức của danh hiệu Phật không thể nghĩ bàn. So sánh như vậy, có thể tìm ra đỉnh cao nhất của Phật giáo, chính là một câu “A-di-đà Phật”. Một câu “A-di-đà Phật” đã giải quyết tất cả vấn đề mà Đức Thế Tôn đã nói trong bốn mươi chín năm. Không những tất cả pháp mà Đức Thế Tôn đã nói không rời câu danh hiệu này mà cho đến tất cả chư Phật Như Lai trong mười phương ba đời, vì tất cả chúng sinh nói vô lượng pháp môn, cũng không lìa câu “A-di-đà Phật” này. Thông qua đó, chúng ta mới thật sự hiểu rõ lời Cổ đức đã nói: “Công đức của danh hiệu A-di-đà không thể nghĩ bàn”. Chân tướng của kinh không thể nghĩ bàn, sâu xa không thể nghĩ bàn đó. Niệm câu A-di-đà Phật này sẽ được thành tựu. Tại sao? Vì không một mảy may hoài nghi, không một chút lo lắng, quyết lòng niệm Phật, biết câu danh hiệu này chính là kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. Câu danh hiệu này là tất cả các pháp môn mà Đức Phật Thích-ca đã nói trong 49 năm, “Một là tất cả, tất cả là một.”. “Một” đã tìm được rồi. Làm sao mà không hoan hỷ! Bảo bối chân chính của Phật pháp đã tìm ra, tu học theo pháp môn đây, đời này quyết định thành tựu.