Hình ảnh thiên nhiên trong thơ ca đời Lý đa phần xuất hiện với tư cách là những biểu tượng, là phương tiện để thi nhân biểu đạt nội dung triết lý hay cảm quan Thiền đạo.
Đấy là hình ảnh biểu trưng cho những thực tế siêu nhiên, trừu tượng của triết lý nhà Phật. Thiên nhiên trong thơ ca đời Trần có khác.
Đầu đời Trần trong thơ Trần Thái Tông, Tuệ Trung, hình ảnh thiên nhiên vẫn còn mang ý nghĩa biểu trưng cho triết lí Thiền. Từ giữa đời Trần về sau, thiên nhiên đã trở thành đối tượng thẩm mĩ đích thực.
Thi nhân tiếp xúc thiên nhiên ngoại cảnh với nhiều cảm xúc, phong phú, đa dạng từ tâm trạng bình lắng trước cảnh thiên nhiên cô tịch, xa vắng, đến những cảm khái nhẹ nhàng rồi bất mãn với thời cuộc.
Thơ giai đoạn này vừa thể hiện sự rung động của thi nhân trước thiên nhiên bằng cảm quan Thiền học vừa có phản ánh phóng khoáng của tư tưởng Nho gia và cái nhàn dật của Lão Trang.
Khác với thời Lý, những hình ảnh thiên nhiên xuất hiện trong thơ như là những biểu tượng của lẽ Thiền, chất lí trí còn đậm. Đến thời Trần thì đa phần trong sáng tác của các thi nhân, thiền sư, thiên nhiên đã thực sự trở thành đối tượng thẩm mĩ thật sự.
Các thi nhân, Thiền sư đã thật sự trải lòng với cảnh núi cao sông dài, với ánh trăng trên đoá mộc tê, trải tầm mắt với cánh bạch âu lưng trời, theo đàn cò liệng xuống cánh đồng chiều vãn, rồi ngắm cảnh bướm xuân phơi phới trên những đóa hoa thắm tươi đầy hương sắc.
Con người Thiền sống giữa thiên nhiên để thấy tâm hồn mình về với Chân Như, với những cảm xúc hồn nhiên không gợn niềm trần tục.
Thiền gia cảm nhận thiên nhiên bằng tâm hồn tĩnh tại, an nhiên, bởi họ cho rằng Bản thể của vũ trụ là trống không khi tâm đạt tới độ tĩnh tại tuyệt đối, tâm trong suốt vắng lặng thì có thể hòa nhập vào bản thể của vũ trụ vạn vật.
Thiên nhiên qua cái nhìn của Thiền gia mặc dù bình dị nhưng lại thấm đẫm hơi hướng mỹ cảm Thiền. Đọc bài thơ Nguyệt của Trần Nhân Tông chúng ta có thể dể dàng nhận ra điều đó:
半窗登影滿床書
露滴秋庭夜氣虛
睡起砧聲無覓處
木棲花上月來初
Bán song đăng ảnh mãn sàng thư,
Lộ trích thu đình dạ khí hư.
Thụy khởi châm thanh vô mịch xứ,
Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ.
(Bóng đèn soi nửa cửa sổ, sách đầy giường – Móc rơi trên sân thu, hơi trống không – Tỉnh giấc tiếng chày nện không còn nghe thấy – Trên chùm hoa quế, trăng vừa mọc).
Bài thơ mở đầu bằng không gian hẹp – không gian của đời sống thường nhật từ đó mở rộng ra không gian vũ trụ. Một đêm thu lặng có thể nghe được tiếng sương rơi. Cái động nhờ cái tĩnh mà sinh ra. Âm thanh của tiếng sương rơi hẳn là rất nhỏ, không gian phải rất tĩnh lặng thì mới có thể nghe được.
Ngược lại cái động nhờ cái tĩnh mà hiện hữu, không gian tĩnh mịch vắng lặng được nhận thức bởi tiếng sương rơi ngoài sân thu. Đây chẳng phải là thủ pháp dựng dậy những mối quan hệ đối lập gợi liên tưởng được dùng phổ biến trong Đường thi đó sao?
Có thể nói không gian của bài thơ là không gian đặc trưng của thơ Thiền, một không gian bao la, khoáng đạt, trong trẽo và tĩnh lặng. Tất cả điều đó càng làm tăng cảm giác về sự bao la vô hạn của không gian. Đặc biệt là cái cảm giác về sự trống không, hư không. Nó biểu trưng cho cái “Không” của Thiền.
Tâm Thiền là cái trống không, bình đạm, trong trẻo và lặng lẽ. Đây là không gian được lọc qua con mắt Thiền, là ngoại cảnh nhưng cũng là tâm cảnh. Ta có thể bắt gặp cái không gian này ở nhiều câu thơ khác Dạ khí phân lương nhập họa bình ([1]) (Khí đêm chia hơi mát vào bức rèm vẽ); Tâm kỳ phong cảnh cộng thê thanh ([2]) (Lòng thẹn với phong cảnh cùng trong trẻo, lạnh lẽo). Khách khứ tăng vô ngữ – Tùng hoa mãn địa hương[3] (Mưa tạnh trời một màu biếc – Mặt ao lặng ánh trăng tỏa hơi mát).
Không gian của bài thơ này được bao trùm bởi trạng thái “hư” trống không – trạng thái tương thông giữa tâm Thiền tĩnh tại an nhiên với cái trống không của bản thể vũ trụ. Trong bài thơ này thi nhân – Thiền nhân tỉnh dậy, “thụy”, không phải bởi sự chi phối của những âm thanh thế tục mà đó là cái tỉnh giấc tự nhiên – sự ngộ lẽ Thiền.
Thế nên thi nhân mới cảm nhận được ánh sáng của vầng trăng ngộ đạo tỏa chiếu trên đóa mộc tê. Bài thơ thể hiện cảm hứng Thiền qua những hình ảnh thiên nhiên rất đỗi bình dị: trên nền không gian hư tịch ánh trăng nhẹ đến trên đóa mộc tê – Một chi tiết nhỏ, rất bình thường của đời sống tự nhiên bổng trở nên huyền diệu, bừng lên ánh sáng của Thiền cảm.
Trước thiên nhiên tươi đẹp, Thiền nhân chỉ “cảm” mà không trực tiếp “giãi bày” bằng lời. Con người Thiền thường “vô ngôn” trước cảnh sắc ngoại giới. Lời nói hữu hạn không thể nào diễn tả được hết cái biến thiên, cái hằng thường. Cái Hữu của lời nói không thể nào chiếm lĩnh cái Vô, cái Không tuyệt đối mang tính vĩnh hằng của Bản thể.
Một trong những đặc trưng thẩm mĩ cơ bản của thơ ca phương Đông là nghệ thuật biểu diễn cái không lời “Thư bất tận ngôn, ngôn bất tận ý” (Kinh Dịch), “ngôn vô ngôn” (Đạo đức kinh – Lão Tử), “Thính hồ vô thanh” (Nam hoa kinh – Trang Tử). Trong quy luật tâm lý cái không lời, vô ngôn bao giờ cũng dễ tác động đến chiều sâu tâm thức, cảm xúc con người hơn là cái phô bày, cái có lời.
Cho nên tiếng đàn của người ca kĩ trên bến Tầm Dương đã đạt đến chỗ vi diệu “Thử thời vô thanh thắng hữu thanh” (Tỳ bà hành – Bạch Cư Dị). Ta còn bắt gặp hình ảnh “con người vô ngôn” trước thiên nhiên ở những bài thơ khác.
客去僧無語
松花滿地香
Khách khứ tăng vô ngữ,
Tùng hoa mãn địa hương ([4]) .
(Khách [chỉ ta] ra về, sư ở chùa trầm ngâm không nói – Hoa thông đầy đất ngát mùi hương).
Cảnh ấy tình ấy, còn cần gì phải nói nhiều hơn nữa. Vả lại, không gian đang hết sức trong sáng, yên tĩnh mát mẻ – một sự thanh khiết đến vô cùng vô tận. Trước không gian tuyệt diệu đó của đất trời con người tự nhiên lọc sạch hết mọi nghĩ ngợi ưu phiền, tự nhiên quên hết những lời cần tâm sự.
Bởi khi chia tay kẻ ở, người về đều lặng yên. Sự yên lặng càng làm dậy lên mùi hương thông thơm ngát mặt đất “Tùng hoa mãn địa hương”. Bài hơ kết thúc bằng sự mở ra vô biên một trường giao cảm giữa con người – cảnh vật trong một mùi hương nhẹ nhàng lan toả – một thông điệp không lời. Đến đây ta lại nhớ nhiều đến mấy câu thơ của Nguyễn Trãi:
日暮猿聲急
山空竹影長
箇中真有意
欲語不還忘
Nhật mộ viên thanh cấp,
Sơn không trúc ảnh đường.
Cá trung chân hữu ý,
Dục ngữ bất hoàn vương (vong) ([5]).
Thơ thiên nhiên mang cảm hứng Thiền còn bộc lộ cái xao xuyến của tâm hồn trước cảnh sắc thiên nhiên lung linh, huyền ảo, mơ hồ. Cái đẹp của thiên nhiên được tạo dựng bởi cái mơ hồ giữa Thực và Hư, giữa Sắc và Không, giữa Hữu và Vô, giữa động và tĩnh. Đăng Bảo Đài sơn của Trần Nhân Tông là một bức tranh thiên nhiên được khắc họa bởi những yếu tố đối lập đó:
地寂臺逾古
時來春未深
雲山相遠近
花徑半晴陰
萬事水流水
百年心語心
倚欄橫玉笛
明月滿胸襟
Địa tịch đài du cổ,
Thời lai xuân vị thâm.
Vân sơn tương viễn cận,
Hoa kính bán tình âm.
Vạn sự thủy lưu thủy,
Bách niên tâm ngữ tâm.
Ỷ lan hoành ngọc địch,
Minh nguyệt mãn hung khâm.
(Đất vắng vũ đài thêm cổ kính – Theo thời tiết mưa xuân chưa về lâu – Ngọn núi phủ mây khi xa khi gần – Con đường hoa nửa sáng nửa tối – Muôn việc như nước trôi theo nước – Trăm năm lòng nói tới lòng – Đứng tựa lan can cầm ngang ống sáo ngọc – Trăng sáng rọi đầy cả ngực và bụng)
Về thời gian, bài thơ có sự đối lập giữa xưa (du cổ) – nay (thời lai). Về không gian là đối lập giữa xa (viễn) – gần (cận), sáng (tình) – tối (âm). Cảnh vật vừa như thực vừa như hư trong không gian cao rộng cô tịch. Nó tạo cảm giác về sự hiện hữu vô thường của vạn vật trong cái hằng thường của bản thể vũ trụ, trước bức tranh thiên nhiên ấy nhà Thiền đã lĩnh hội được chân lý:
Muôn việc như nước trôi theo nước,
Trăm năm lòng nói với lòng.
Từ chỗ ngộ được chân lý, Thiền nhân đứng lặng lẽ chiêm ngưỡng cảnh vật bằng cái tâm bình thản được phủ chiếu bởi ánh trăng huyền diệu – Ánh trăng của tâm linh đã được giác ngộ – đang chiếm lĩnh không gian ngoại cảnh. Như vậy, ở đây tâm cảnh – ngoại cảnh đã có sự tương thông đồng điệu, hòa nhập. Ta có thể nhận thấy Thiền quan, Thiền cảm đặc biệt này ở nhiều bài thơ khác:
村後村前淡似煙
半無半有夕陽邊
Thôn hậu, thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô, bán hữu tịch dương biên ([6]).
(Thôn trước, thôn sau, lờ mờ dường như khói phủ – Nửa có, nửa không, trong bóng chiều hôm)
Thiền nhân trong thời Trần, có những khoảnh khắc “quên”. Họ không muốn tìm quên trong tụng niệm mõ chuông mà tìm quên trong thiên nhiên:
夜氣分涼入畫屏
簫簫庭樹報秋聲
竹堂忘適香初盡
一一松之網月明
Dạ khí phân lương nhập họa bình,
Tiêu tiêu đình thụ báo thu thanh.
Trúc đình vong thích hương sơ tận,
Nhất nhất tùng chi võng nguyệt minh ([7]) .
(Khí đêm chia hơi mát vào bức rèm vẽ – Cây trước sân xào xạc báo tiếng thu – Dưới mái tranh quên bẳng hương vừa tắt – Mấy khóm cây cành giăng lưới vầng trăng sáng).
Nếu hơi đêm lạnh, tiếng cây lá thu nhắc nhở mọi người về sự trôi đi không ngừng của thời gian vô thủy vô chung, thì trạng thái “quên” bẳng nén hương vừa tắt là một sự hòa nhập trọn vẹn giữa tâm hồn người Thiền và ánh trăng sáng đã tràn ngập cỏ cây, hoa lá, tạo vật. Trạng thái “quên” này ta còn thường thấy ở nhiều bài thơ của các Thiền sư núi Yên Tử, các thi nhân của thi xã Bích Động:
木棲窗外千鳩寂
一枕清風晝夢餘
Mộc tê song ngoại thiên cưu tịch,
Nhất chẩm thanh phong trú mộng dư ([8]).
(Trên cây quế ngoài cửa sổ, ngàn con chim cưu vắng tiếng – Một chiếc gối trong gió mát, giấc mộng ban ngày chưa tàn)
忘身忘世以都忘
坐久簫然一榻涼
Vương thân, vương thế dĩ đô vương (vong),
Tọa cửu tiêu nhiên nhất tháp lương ([9]).
(Quên mình, quên đời, quên hết cả – Yên lặng ngồi lâu, lạnh cả giường)
Thơ thiên nhiên đời Trần có những vần thơ sự kết hợp giữa những rung cảm cá nhân và tư tưởng Thiền học. Đó là những lời tâm sự, một nỗi xao động giữa cảnh đời cảnh đạo, tâm hồn đơn côi và hoang lạnh giữa mịt mờ trời đất rộng lớn.
Ý vị Thiền toát ra từ cảm giác không hư của cuộc đời con người. Tiêu biểu cho đặc điểm này trong thơ thiên nhiên mang cảm hứng Thiền là phong cách thơ của Huyền Quang, vị tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm.
Thơ ca ông có cái “bay bướm, phóng khoáng” ([10]) và thể hiện cái tôi đầy say đắm trước cảnh sắc thiên nhiên. Đến nỗi có lời dị nghị về ông và Lê Quý Đôn cũng nhận định: “
Tựa hồ chẳng phải lời nói của nhà tu hành” (Thi tuy giai phi tăng gia ngữ)([11]). Tuy nhiên dù gì đi nữa thì cội Thiền trong ông vẫn còn bền chặt do đó thơ ca của ông dù đậm dù nhạt vẫn phảng phất Thiền vị. Bài Phiếm chu là một trong những bài đặc sắc, tiểu biểu cho phong cách thơ của ông:
小艇乘風泛渺茫
山青水綠又秋光
數聲漁笛櫨花外
月落波心江滿霜
Tiểu đỉnh thừa phong phiếm diễu mang,
Sơn thanh, thủy lục, hựu thu quang.
Sổ thanh ngư địch lô hoa ngoại,
Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương.
(Chiếc thuyền theo gió lướt trên mặt nước bát ngát -Non xanh nước biếc lại thêm cảnh sắc mùa thu – Vài tiếng sáo chài văng vẳng ngoài rặng hoa lau – Trăng rơi vào lòng sông mặt sông phủ đầy sương)
Bài thơ là cả một không gian rộng lớn bao trùm, con thuyền như trở nên lẻ loi giữa cái không gian rộng lớn ấy. Núi xanh nước biếc như đang tô điểm thêm cho sắc thu, hay nó tạo thành sắc thu? Mấy tiếng sáo chài trong đám lau thưa, là thứ âm thanh duy nhất đánh động không gian, đánh động vào tâm hồn của cô nhân.
Bài thơ được tạo dựng nên bởi những nét phác họa đặc trưng của cấu tứ Đường thi. Thoáng đọc ba câu thơ đầu, chúng ta những tưởng đấy là tâm sự của một thi nhân đang mang niềm trắc ẩn, đau đáu một nỗi niềm.
Tuy nhiên đến câu cuối thì cảm hứng Thiền đã thăng hoa. Nếu mô hình hoá, chúng ta sẽ dể dàng nhận thấy bài thơ có ba tầng hình ảnh:
Ánh trăng thực
Màn sương bao phủ trên mặt sông
Con thuyền lẻ loi
Ánh trăng trong đáy nước.
Hình ảnh con người cô đơn đang nằm trong khoảng sương phủ đầy mặt sông phía nửa trên là không gian lồng lộng trong sáng, nửa dưới là không gian mờ ảo. Sự kết hợp giữa ánh trăng đáy nước và “sương mãn giang” phủ màu sương tĩnh mịch hư ảo lên không gian rộng lớn của lòng sông thu.
Ta vẫn nhận thấy trong thơ mang cảm hứng Thiền vì giữa hai yếu tố: hư – thực luôn hòa quyện chuyển hóa lẫn nhau. Đó là một trong những đặc trưng thẩm mĩ của thơ Thiền.
Mãng thơ thiên nhiên đời Trần đã để lại nhiều áng thơ vào hàng tuyệt tác trong nền thơ ca cổ điển dân tộc. Đằng sau những bài thơ ấy là những tâm tình với khát khao hoà nhập vào thiên nhiên, vào cuộc sống.
Đồng thời các thi nhân cũng đã gửi gắm vào đó những chiêm nghiệm về lẽ vô thường của con người trước cái hằng thường của vũ trụ. Đó là chẳng phải là cái nhìn mang cảm hứng Thiền, tâm trạng Thiền, ý vị Thiền nhưng cũng thấm đẫm chất thế sự với những cung bậc tình cảm hết sức phong phú của con người đời thường đó sao?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí (tập IV, phần Văn tịch chí), NXB Sử học, Hà Nội, 1961.
2. Nguyễn Công Lý, Văn học Phật giáo thời Lý -Trần diện mạo và đặc điểm, NXB Đại học Quốc gia TPHCM, 2003
3. Bùi Văn Nguyên, Lịch sử văn học Việt Nam từ thế kỉ X -thế kỉ XVII, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1978
4. Trần Lê Sáng (chủ biên), Tổng tập văn học Việt Nam (tập 2), NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1997
5. Đoàn Thị Thu Vân, Khảo sát đặc trưng nghệ thuật thơ thiền Việt Nam từ thế kỉ thứ X – thế kỉ thứ XIV, Trung tâm nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, Hà Nội, 1996
6. Đoàn Thị Thu Vân, Thơ thiền Lý -Trần, NXB Văn nghệ TPHCM, 1998