Ngôi chùa Thiên Mụ quê tôi

Tiếng chuông Thiên Mụ dặn dò,
Em đi : cảnh vắng hẹn hò cùng ai ?

Tôi còn nhớ hôm nhà tôi bảo vệ luận văn ên đề tài ngôi chùa Thiên Mụ, nghe các giáo sư ong ban giám khảo và thí sinh vui vẻ anh luận về mấy chữ “anh đi“, “em đi“, ai đi, ai đợi, ai hẹn, ai buồn ong câu ca dao quen thuộc, có lẽ là người đi lại nhiều nhất ngôi chùa nầy ong số các thính giả ở giảng đường hôm ấy, tôi thầm lặng thú vị thấy ngôi chùa thân thương tuổi ẻ của mình nay được ình bày ong viện đại học giữa kinh thành ánh sáng Paris. Nói cho đúng, chùa Thiên Mụ không đồ sộ như đài Borobudur bên Java, bí ẩn như kim tự tháp Ai Cập, mỹ miều như đền Taj Mahal xứ Ấn Độ, lâu đời như nhà thờ Đức Bà Paris, … nhưng thiền tự duyên dáng nầy âm thầm quyến rũ khách lại xem, luôn gây ra một ấn tượng nhớ nhung dạt dào ong lòng người đến viếng. Đừng nói đến những ai thanh gái lịch đã từng dắt nhau lại vãn cảnh sân chùa, đạp lá vàng khô, hay ngắm nhìn sông núi, tình tự thề ước, chùa Thiên Mụ luôn vẫn là nơi chứa đầy kỷ niệm êm đềm, suốt đời khó quên.

Về mặt lịch sử, ngôi chùa nầy là một cơ sở quan ọng của thành Huế và từ năm 1993, cùng với thành phố, chùa đã được Cơ quan Văn hóa Liên hiệp quốc công nhận làm Di sản Nhân loại. Thật vậy, được xây dựng ên đồi Hà Khê năm 1601, từ thuở Đoan Quận công Nguyễn Hoàng, năm 34 tuổi, vài năm sau từ ngoài Bắc vào đây ấn thủ, chùa ở thành nhà thờ chính thức của iều Nguyễn. Liên tục chứng kiến những bước thăng ầm, những thời thịnh suy của vương iều cuối cùng nước ta, góp phần vào cuộc phát iển Phật giáo ở Việt Nam, chùa Thiên Mụ đã để lại nhiều tài liệu ong sách sử, tuy ngày nay lắm nhà học giả đang còn suy luận, bỏ công tìm hiểu nhiều chi tiết ngay tại chỗ. Ngay tên ngôi chùa đã là một huyền thoại có ý nghĩa. Từ lâu, năm 1719, Bảng ung Hầu Nguyễn Khoa Chiêm (1659-1736) đã có viết ong cuốn Nam iều công nghiệp diễn chí : ” ….Đêm hôm ấy bỗng có một người đàn bà ông thể sắc thì còn ẻ, nhưng mày tóc bạc phơ, mình vận áo đỏ quần xanh ngồi dưới chân đồi than vãn, rồi cất tiếng to : đời sau nếu có bậc quốc chủ muốn bồi đắp mạch núi để làm mạch cho Nam iều, thì nên lập chùa thờ Phật, cầu thỉnh linh khí ở về nơi núi này để phúc dân giúp nước, tất không có gì phải loNgười đàn bà ấy nói xong liền biến mất….” Non 200 năm sau, năm 1910, ..ong bộ Đại Nam nhất thống chí, cũng có kể lại sự tích nầy. Tuy lời của người đàn bà có phần khác ” …Sau sẽ có vị chân chúa đến sửa sang dựng lại chùa nầy, tụ linh khí để giữ vững long mạch cho được bền vững. Nói xong thì biến mất, nhân đó mà núi nầy được gọi là Thiên Mụ sơn . Chúa thượng cho rằng đất nầy có linh khí, bèn dựng chùa gọi là Thiên Mụ tự….” nhưng không ngoài mục đích của các vua chúa Nguyễn dựa vào thiên nhiên, thần thánh để hợp pháp hóa bá quyền của mình, tin tưởng ở lời khuyên của ạng ình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) : Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân.

Đồi Hà Khê nằm về phía tây thành phố Huế, khoảng 6km, ên bờ tả ngạn sông Kim à hay Linh Giang tức là sông Hương bây giờ, hướng về dãy ường Sơn hùng vĩ, còn mang những tên Hương Oản, Uyển Sơn huyền bí, được xem như điểm sơn iều thủy tụ giữa sông và núi, nơi phát xuất một nền văn hóa Phú Xuân phong phú lưu uyền mấy ăm năm. Tục uyền Cao Biền (821-887), thuở làm tiết độ sứ Giao Châu, đi ngang qua đây thấy cánh đồi giống như một đầu rồng ong thế long hồi cố tổ khoa địa lý phong thuỷ, bèn cho đào núi cắt đứt long mạch, cố ý yểm phá một sự nghiệp lớn có thể bột khởi ong tương lai. Dân địa phương ước kia đã có dựng ên nền một tháp Chăm cũ một thảo am thờ tự mang tên chùa Thiên Mỗ, nóc ở đỉnh núi chân gối dòng sông. Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1525-1613) nắm cơ hội tự xưng mình là chân chúa, liền cho lấp núi, dựng lên nền cũ thảo am ấy một ngôi chùa đặt tên chùa Thiên Mụ, ên bản viết Thiên Mụ Tự, cầu thỉnh linh khí ở về nơi núi nầy để bảo toàn long mạch, phúc dân giúp nước. Hành động khôn ngoan của Nguyễn Hoàng không những đem lại an cư lạc nghiệp cho dân quanh vùng Hóa Châu mà còn làm thành điểm phát xuất một vương iều Nguyễn ước 13 đời chúa, sau 9 đời vua, thống nhất đất nước thu về một mối. Chỉ một đời sau, ong thời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1614-1635), dân cư đã đến đông đúc quanh vùng. Nhưng phải đợi đến đời chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1620-1687) mới lại nghe nói đến chùa với kỳ ùng tu năm 1665, vào lúc thiền sư Tạ Nguyên Thiều dòng Lâm Tế từ Quảng Đông đến hoằng dương Phật pháp ở Đàng ong và qua ù ì chùa Hà ung ở huyện Phú Lộc dưới đời chúa Nguyễn Phúc Thái (1650-1691).

Phật giáo chỉ phát iển mạnh mẽ từ đời Quốc Chúa Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1675-1725) là người có tiếng mộ đạo. Năm 1695 chúa mời Thạch Liêm Hòa Thượng tức Đại Sán Hán Ông lại ở chùa tám tháng. Theo miêu tả của hòa thượng, chùa Thiên Mụ hồi ấy là đã là điện đài tuy lợp anh, tường vách ván đố, nhưng kèo, cột, rui, mè bằng gỗ quý, chạm ổ hoa văn theo phong cách mỹ thuật uyền thống, quanh vườn ồng cây cổ thụ. Năm 1710, chúa cho đúc chuông lớn cung phụng Tam Bảo, nhân tứ nguyệt Đản nhật, tức lễ Phật đản tháng tư năm Canh Dần. Năm 1714, chúa cho san bằng đỉnh đồi Hà Khê, huy động quan chức, tuyển chọn quân lính, tìm gỗ đá ở các tỉnh về chạm ổ, sửa chữa chùa rộng đẹp ong hơn một năm. Chính ngay chúa đã thống kê những điện lầu xây dựng sau thời kỳ ùng tu ong một tấm bia đá cẩm thạch đặt ên lưng tượng một con rùa : ” Từ cửa núi đi vào có đìện Thiên Vương, điện Ngọc Hoàng, bảo điện Đại Hùng, nhà thuyết pháp, lầu Tàng Kinh. Hai bên là lầu Chuông và lầu ống, rồi điện Thập Vương, nhà Vân Thủy, nhà ăn, nhà tọa thiền, rồi điện Đại Bi, điện Dược sư, nhà ở của chư tăng, nhà ọ cho khách, không dưới vài mươi sở. Bên sau là vườn Tì Da, ong vườn có nhà Phương ượng, và các chỗ cũng không dưới vài chục sở. Tất cả đều sáng chói rực rỡ, khiến cho người xem phải kinh ngạc sợ hãi. Thật là một tòa Quang Minh ong thế giới toàn sắc vàng rực vậy.” Chúa đổi tên chùa thành Thiên Mụ Thiền Tự. Tuy là quốc tự và là nơi thừa tự dòng họ các chúa Nguyễn, sau chúa, chùa bị bỏ hoang, gỗ hư mọt, ngói lỡ sụt, và qua năm 1775, lúc Định Vương Nguyễn Phúc Thuần (1754-1777) chạy ốn vào nam, kinh thành Phú Xuân bị quân ịnh tàn phá thì chùa hoàn toàn đổ nát, kinh luận hủy hoại tiêu tán. Thời Tây Sơn (1786-1801), Phan Huy Ích (1750-1822) đã từng đau lòng ước cảnh hoang tàn lạnh lẽo (1788) : Am xưa nay biển tế đàn, Chùa xưa thờ Phật nay toàn để xe.

Khi Gia Long (1762-1820) lên ngôi (1802), nhà vua đợi đến năm 1815 mới cho sửa chữa chùa. Bửu điện Đại Hùng được xây lại nhưng vẫn giữ chổ cũ từ thời Nguyễn Hoàng, vua cho xây thêm các điện Di Lặc, Quán Âm, Thập Vương, Tàng Kinh Lâu, Lôi Gia, lầu Chuông, lầu ống hai bên Nghi Môn. Năm 1825, vua Minh Mệnh (1791-1841) lại cho sửa chữa tiếp rồi nhiều lần cho thiết ai đàn. Việc làm đáng kể của vua Thiệu ị (1807-1847) là cho xây tháp Phước Duyên năm 1844-1845 “Ta vốn chẳng phải kẻ sùng đạo, chỉ vì sủng nguyện của dân nên cho lập chùa mà thôi“. Ngày nay, tháp thờ Phật nhưng nghe theo di chiếu của vua Minh Mệnh thì phải là một công ình hỗn hợp hài hòa tam giáo và tín ngưỡng dân gian. Ngoài ngôi tháp, nhà vua đã cho sửa chữa nhiều, xây điện đài mới vào thay thế những sở nhà hư sập. ước ngôi tháp được dựng đình Hương Nguyện ên nóc có pháp luân luôn quay theo chiều gió, hai bên có hai bi đinh hình tứ giác, từ bến sông đi lên có bốn ụ hoa biểu rất cao. Nói chung kiến úc chùa đã thật hoàn hảo và gần giống như ngày nay ừ vài thay đổi. Đồng thời vua cũng cho tổ chức nhiều lễ lớn, Lạc thành, Đảo vũ, Vu lan. ong bảng kê 20 thắng cảnh đất Thần Kinh kèm theo 20 bài thơ ca tụng, chùa Thiên Mụ qua bài Thiên Mụ chung thanh được sắp số muời bốn. Gió đưa cành úc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương. Mỗi lần lên chùa với con, em, gia đình, vua hay làm nhiều bài thơ, cho khắc vào bia đá. Năm 1862, vua Tự Đức (1829-1883) sợ chữ Thiên phạm đến ời nên cho đổi tên Thiên Mụ Tự ra Linh Mụ Tự, hy vọng có con nối dõi, từ đấy dân gian có hai danh từ để gọi chùa. Năm 1899, vua Thành Thái (1879-1947) lại cho sửa chữa, năm 1920 cho dựng bia ghi bài thơ ca tụng vẻ đẹp của chùa. Nói chung, người nhiều kẻ ít, phần lớn các vua chúa nhà Nguyễn đều có lo chăm sóc ngôi quốc tự nầy.

Ngày nay, đi bộ từ thành phố lên chùa, khách hết còn phải len lóc cây cối hoang rậm như thuở ước, gần đây cũng hết được dạo xem những quán hàng dọc lòng sông được giải tỏa, chỉ còn ngắm nhìn phong cảnh sông nước bao la, xa xa những dãy núi Xước Dũ, Kim Phụng yên lặng soi bóng sông Hương. Tuy nhiên, nếu tò mò tìm thì còn thấy đuợc cổng vào ngôi nhà-vườn uyền thống An Hiên của bà Lan Hữu nay được ghi làm Di tích quốc gia, viếng thăm ong khu Đại Chủng viện Kim Long ngôi mộ của cha Léopold Cadière (1869-1955), người đã khảo cứu sâu rộng văn hóa Phú Xuân và đóng góp nhiều ong hội Đô thành Hiếu cổ Association des Amis du vieux Hué. Lại gần thì từ xa đã thấy bóng tháp chùa thấp thoáng sau mấy hàng cây. Rõ ràng hơn là đến chùa bằng đò, nhìn từ sông tháp không bị che. Chỉ khi cập bến, nếu khách lại mùa hè thì mục kích được những cánh hoa phượng đỏ chói làm tăng vẽ cổ uyền của ngôi tháp rêu phong. Leo lên mấy tầng cấp, sau hai ụ đá, khách bước vào khuôn viên chùa qua bốn ụ biểu cao gần 8m, có gắn gạch hoa áng men, với bốn vế đối của vua Thiệu ị đánh dấu “ngự chế” phát huy tinh thần Phật giáo “dạy dỗ cho muôn loài biết đạo“. Sau những ụ biểu một sân cỏ có viền mép đá thanh là nền cũ đình Hương Nguyện được dựng vào những năm 1844-1845 nghĩa là đồng thời với bửu tháp Phuớc Duyên nhưng bị ận bảo năm Thìn (1904) đánh đổ, sau nầy được cất lại phía sau điện Đại Hùng. Gọi là đình vì không phải nhà thờ, cũng không phải đình làng mà là nơi nghỉ chơi của nhà vua. Hai bên nền là hai bi đình, nhà vuông xây gạch, nền ghép đá thanh : bia phía đông kể chuyện dựng tháp Phước Duyên, bia phía tây khắc thơ của vua Thiệu ị vịnh chùa Thiên Mụ. Toàn khuôn viên nầy là một nơi dạo chơi thoải mái, ước mặt có sông Hương êm đềm, những con đò nhỏ lướt nhẹ ên sóng, vào chiều in bóng ong nước, ước dãy núi hùng vĩ bao la, không khỏi gợi ong lòng khách một ạng thái thảnh thơi, nhẹ nhàng nơi chốn Tiên Phật.

Đứng ngay sau nền Hương Nguyện là bửu tháp Phước Duyên, lúc đầu mang tên Từ Nhân, (người Pháp gọi “tháp Khổng Tử” ?) bảy tầng bên ngoài hình bát giác (tám góc), bên grong hình òn, cao hơn 20m, kể từ mặt nước sông Hương thì cao gấp đôi. Ngó lên ngọn tháp bảy tầng, Một đêm em dậy mấy lần nghe chuông… Tháp có tường bằng gạch nung già để ần không tô, dùng mạch vôi hồ kết dính, xây ên nền đá thanh cứng với một lớp móng chôn vùi dưới đất không biết dày bao nhiêu, ông tương tự tháp Chăm. Cả tám mặt đều có lan can, hai cửa ước và sau, ang í bằng gạch hoa áng men Long Thọ hay pháp lam. Mỗi tầng tháp có cửa tò vò cho ánh sáng lọt vào, cửa òn thông gió không hoàn toàn cân đối, lại có hoa văn khác nhau : chữ thọ (tầng dưới cùng), chữ vạn (tầng tư và tầng ên cùng), hoa thị 4 cánh (các tầng năm và sáu) hay 6 cánh (tầng ba). Muốn lên tầng ên, khách phải èo một cầu thang xoắn ốc hướng tay mặt chứ không phải hướng tay ái như thường lệ. Lên càng cao, tháp càng nhỏ lại nhưng kiến thiết các tầng đều giống nhau. Cầu thang xoắn ốc không đưa lên đến tầng chót, muốn lên phải dùng một cái thang gỗ bắc ong một ô cửa và di động được. Nghe nói lúc ước tầng nầy được bảo vệ chặt chẽ, có ổ khóa do bộ Lễ quản lý ! Vậy mà tượng Phật bằng vàng (nếu có) đặt ở đây vẫn bị mất ! ên cửa tò vò có bức hoàng phi đề Tự Tại Thiên xác định đây là cõi ời. Qua cửa tò vò khách được chiêm ngưỡng vừa một quang cảnh sông núi hùng vĩ chốn đế đô, vừa một bức anh hữu tình của đất nước Hương Bình, nơi gặp gỡ sông nước và non cao.

Ở mỗi tầng, một bức hoành phi đặt giữa hai vế đối. Hoành phi tầng dưới cùng đề tên của tháp : Phước Duyên Bảo Tháp. Lần lượt sáu bức hoành phi khác cũng có ba hay bốn chữ : Phúc bị quần sinh, Hóa thông vạn loại, Thiện căn hữu khế, Phước quả thường viên, Cực lạc cảnh, Tự Tại Thiên. Mỗi tầng thờ một Kim thân Thế tôn, theo bia đá Ngự chế Thiên Mụ Tự, từ ên xuống dưới : đệ nhất QuáKhứ Tỳ Bà Thi Phật (Vispasin) ; đệ nhị Thi Khí Phật (Sikhin) ; đệ tam Ty Xá PhúPhật (Vessabhu); đệ tứ Câu Lưu Tôn Phật (Krakuchanda) ; đệ ngũ Câư Na Xá Mâu NiPhật (Kanakamuni) ; đệ lục Ca Diếp Phật (Kashyapa) ; đệ thất ung Thiên Điền Ngự BổnThích Ca Mâu Ni Văn Phật (Sakyamuni), Tây Phương Cực Lạc Pháp Vương (Amitabha), bồi chi hữu A Nan (Ananda), Ca Diếp (Kashyapa) tôn giả. Vậy thì có tất cả 9 hay 10 pho tượng. Dù sao, những tượng nầy bằng vàng (theo tiếng đồn ít nhất cũng có một pho và bị mất) hay bằng đồng sợ bị ộm cắp nên một dạo được thỉnh vào thờ ở điện Đại Hùng và thế vào tháp những tượng bằng thạch cao sơn màu đồng. Hình dạng và y phục các vị Phật quá khứ nầy không mấy khác nhau, tất cả tóc đen ừ một vị tóc vàng, chỉ phân biệt ở ấn quyết nơi hai tay. Năm 1999 tôi chỉ chụp được ảnh 8 pho tượng nầy. Từ năm 2007, những tượng bằng đồng đã được thỉnh về lại tháp.

Ngang hàng với tháp, hai bên có hai nhà lục giác xây sớm hơn và cũng lớn hơn bia đình tứ giác Thiệu ị. Vách tường bằng gạch, kết dính với mạch vôi hồ như ngôi tháp, sáu măt nhà có sáu cửa tò vò. Nhà phía đông chứa đựng tấm bia chúa Nguyễn Phúc Chu kể chuyện xây cất chùa, chạm ổ điêu khắc có mỹ thuật, được dựng ên lưng một con rùa bằng đá cẩm thạch ắng đẽo gọt sinh động. Viền bia có chạm ngọn lữa vươn lên và bốn con rồng năm móng chạm ổ tỉ mỉ, toàn thân uyển chuyển. Đầu bia cũng có chạm mây rồng có đuôi uốn lượn ên làn sóng. Nhà phía tây là gác eo chiếc chuông lớn gọi Đại Hồng Chung, một kiệt tác về ình bày mỹ thuật cũng như kỹ thuật đúc đồng thời chúa Nguyễn Phúc Chu. Cao 2,50m, chu vi ung bình 4m, chuông có quai mang hình mãng xà, chim phụng hoàng, rồng năm móng. Thân chuông có vành rồng, những ô mang chữ thọ, khắc những chữ Hoàng đồ cũng cố, Đế dạo hà xương, Phật nhật tăng huy, tên người dựng chuông, mục đích dựng chuông. Phía dưới có hình mặt ời òn là nơi vồ gỗ đánh vào khi thỉnh chuông, hai bên có ngọn lửa tóe ra, xa lưỡi gần vầng. Dưới cùng ang í tám quẻ bát quái ước miệng chuông chạm ổ hoa văn thủy ba sóng nước ình bày tinh hoa nên rất linh động. So về cả hai mặt mỹ nghệ và kỹ thuật, Đại Hồng Chung hơn xa chuông Gia Long ong lầu Chuông cạnh Nghi Môn. Tiếng chuông lại ngân nga, thanh thoát dễ gợi buồn nơi người nghe. Nghe chuông Thiên Mụ lại buồn, Ngó về Thành Nội khói tuôn lại sầu…

Sau lưng bảo tháp Phưóc Duyên, vua Khải Định (1885-1925) có cho dựng năm 1919 một tấm bia nhỏ lộ thiên kể sơ lược sự tích chùa. Ngay sau bia là một tam quan gọi là Nghi Môn, phía đông có lầu Chuông, phía tây có lầu ống. Rộng gần 5m, dài gần 15m, cao gần 4m, ần bằng gỗ, cửa chính vào chùa nầy gồm có ba gian, có vách phân cách, ong mỗi gian có tượng hai vị Hộ pháp Dharmapala rất sinh động, dáng điệu, bộ mặt , xiêm áo, giáp ụ khác nhau. Phía ên bên kia cửa là ba tò vò, ở chính giữa có biển gỗ đề Linh Mụ Tự, chạm hoa văn rồng, nét sơn son thấp vàng nay đã phai màu, hai biển phía đông đề Đại Từ Bi, biển phía tây đề Đại í Tuệ, đều đắp vôi nổi. Một cái thang dẫn lên lầu, mặt ước đóng đố gỗ, phiá sau xây vào chùa để ống, nhìn từ dưới chẳng thấy rõ, lên ên lầu khách ngạc nhiên phát hiện được một tượng Ngọc Hoàng, mặc dầu nghe nói chùa chỉ giữ lai những hình tượng Phật giáo, bảo vệ đằng sau là một vị Hộ Pháp to lớn, chống kiếm, uy nghi nghiêm nghị.

Qua khỏi Nghi Môn, khách đạt đến một khoảng ống với ba lối đi và hai bên hai nhà Lôi Gia, loại miếu thờ đối diện xây năm 1815 dưới đời Gia Long. Mỗi Lôi Gia chứa ba pho tượng Kim Cương có nhiệm vụ bảo vệ Đạo pháp, đuổi dẹp ác quỷ. Được đắp bằng đất sét ộn với ấu và rơm, mỗi tượng lớn bằng người thật, có một thế ngồi, một cách để chân, một ấn quyết hay dụng cụ ở hai tay khác nhau. Tuy là những vị thần lúc ước mang chùy kim cương Vajrapanis, áo, mão, hia, giáp ụ, vũ khí, vòng quanh thiên thần, màu sắc tô vẽ sặc sỡ biệu lộ một sắc thái ung Quốc. Như để khuyến khích khách gạt bỏ mọi ưu phiền, ác tính ước khi vào chùa, mỗi vị được ình bày đạp chân lên một con thú nhỏ : cóc, rắn, khỉ, hổ, rùa, lân tượng ưng cho thú tính. Như vậy, ước lúc bước vào điện Đại Hùng tất là cõi Phật, đi ngang ước nhà Lôi Gia, khách mang một đầu óc thư thái, thanh thảng rũ sạch mọi bụi ần.

Lối giữa từ Nghi Môn dẫn thẳng vào Bảo điện Đại Hùng (người hùng là đức Phật, có quyền lực chế ngự mọi quỷ sứ), một tòa nhà lớn gồm có hai phần : tiền đường năm gian hai chái và chính đường, ba gian hai chái họp lại thành bốn mái, hai mái chồng nhau, nóc chính điện cao hơn nóc tiền đường. ên nóc tiền đường có hai con rồng chầu một Pháp Luân ong có chữ Phật. ên nóc chính điện cũng có hai con rồng chầu một mặt ời giữa bảy ngọn lửa sắp dọn thành búp hoa sen ong có chữ Vạn. Hai đầu chái chính điện và tiền đường có hình con dơi gắn sành mảnh sứ. ong thiền đường ang í giản dị, có hai vế đối 12 chữ của vua Thiệu ị và hai vế đối 21 chữ của iều đình vua Bảo Đại (1913-1997). Ở chính giữa, một tượng đồng rất lớn đức Phật Di Lặc Maieya, tai lớn dài, cao 0m80, đặt ên một bệ lớn bằng gạch cao hơn 1m. Ngài ngồi vui thích, chân mặt co lên, chân ái xếp bằng, áo ạc ra cho lòi cặp vú và cái bụng phệ, miệng cười thoải mái. eo ên pho tượng là bức hoành phi sơn son chữ lớn Linh Thứu Cao Phong (đỉnh núi nơi đức Phật chuyển pháp lần thứ hai, giảng bộ Kinh Diệu pháp liên hoa), thủ bút của chính chúa Nguyễn Phúc Chu, lúc ước eo ong chính điện. Một bảo vật còn xưa hơn ong tiền đường là cái khánh đồng dài 1m60, rộng 0m55, eo ên một cái giá gỗ, đúc ở Phường Đúc, ang í hai mặt : một mặt đề tên Bình ung Quán Khánh và niên hiệu Vĩnh ị nhị niên tuế Đinh Tỵ (tức là 1677) ọng thu tạo ; mặt kia đề tên người phụng cúng Hội chủ ần Đình Ân đạo hiệu Minh Hồng, pháp danh Tịnh Tín, Thập phương công đức và hình sao Bắc Đẩu nằm giữa nhị thập bát tú, ên một mặt ời với bốn ngọn lửa. Đông iều Hầu ần Đình Ân (1626-1707) là nhạc gia của Nguyễn Khoa Chiêm, cả hai đều làm quan to ong iệu Minh Vương. Có thể tin là khánh đã được đúc cho chùa Bình ung và sau đưa qua chùa Thiên Mụ.

Chính đường hay thượng điện chiếm toàn chiều dài ba gian của điện, dài 30m, rộng 12m, lúc ước cột, kèo, xuyên, ếnh đều làm bằng gỗ lim, gỗ sao, nền lát gạch Bát àng, từ ngày ùng tu năm 1958, được thay bằng xi măng cốt sắt. Ở tiền đường khách thấy ngay một bức hoành phi mang ba chữ Đại Hùng Điện. ên bàn thờ Phật đặt ong cùng có ba tượng Tam Thế thể hiện Tam Thân, bằng đồng, giữa là đức Thích Ca Mâu Ni Sakyamuni, bên ái có đức A Di Đà Amitabha, bên mặt có đức Di Lặc Maieya, tất cả đều ngồi thiền ên hộp sơn đỏ, hai chân chéo nhau, mỗi vị một ấn quyết khác nhau. Cơ thể dỏng cao, dáng đầu thanh ên một cổ dài, những nếp áo che lấp vai chỉ để lộ những nút giây giữ vạt áo dưới,… nhiều chi tiết kê sắp các tượng nầy ong số hình tượng Phật giáo đẹp nhất ở Việt Nam. Năm 1999, ước bàn thờ nầy có bảy vị Phật nhỏ cũng bằng đồng, khó thấy, lúc ước đặt ong tháp Phước Duyên, nay đã được thỉnh về lại tháp. ước các vị nầy năm 1999 còn có một tượng đồng Di Lặc tương đối nhỏ hơn và ong tủ kính tượng đức Thế Tôn Sakyamuni. Hai bên bàn thờ, hai vị bồ tát nắm hoa sen Phổ Hiền Samantabhadra cỡi con thanh sư bên mặt, vị Đại Thế Chí Manjushri cỡi con sư tử bên ái, đều được đặt ong tủ kính. Hậu điện chỉ có một bàn thờ Thạch hòa thượng. Theo các sách xưa, thượng điện còn chứa nhiều hình tượng khác, không thuộc về Phật giáo như các thần Nam Tào, Bắc Đẩu đã được loại ra. Tượng Ngọc Hoàng ở Nghi Môn là một tàn tích còn sót.

Sau bảo điện Đại Hùng là điện Địa Tạng Kshitigarbha dài hơn 28m, rộng gần 20m, xây năm 1815 ên nền điện Di Lặc, với bộ sườn đình Hương Nguyện dời vào. Dấu tích xưa, gồm có mười sáu cột, bốn cột mệ ỡ giữa, bốn mái, bốn kèo mái, ần hình bát quái, điện là một lầu vuông, chạm ổ hoa lá hay hình bát bửu (cây đàn, bầu rượu,…). Khoảng đố giữa các cột được chia thành hộc hình chữ nhật và ô vuông khắc dưới 96, ên 32 câu thơ bằng chữ Hán của vua Thiệu ị, chạm hoa lá mai, lan, cúc, úc, bút lông, ống sáo, gươm, khánh, đàn,… Điện nầy lúc ước được thiết kế để thờ đức Quan Công tức Quan Võ, Quan Vân ường hay Quan Thánh (thường kèm theo ương Phi và Quan Bình), không hẳn phải thần Phật giáo, vì vậy vào khoảng thập niên 50 đức Quan Công được dọn đi và điện được đổi thờ Địa Tạng là vị bồ tát tự nguyện xuống Âm phủ để cứu khổ cứu nạn những âm hồn đang bị quỷ sứ đày đọa. Năm 1999, khi chúng tôi viếng chùa, điện để ống không, chỉ thấy hai chú tiểu ngồi học ên hai cái bàn nhỏ.

Nhà thờ sau cuối khu Thiên Mụ là điện Quán Âm Avalokitesvara, xây ong lùm cây, từ đời Gia Long. Sân, tầng cấp lọt gạch Bát àng, điện dài gần 20m, rộng 13m rưởi, ba gian, hai chái với ba cửa ra vào, hai cửa nách, ang í giản dị không có hoa văn. Tượng đức Quán Thế Âm Bồ Tát lớn, bằng đồng, ngồi ên tòa sen, nét mặt dịu dàng, đặt ước bức hoành phi Quán Âm Điện. Còn có một tượng Quan Âm bằng đá, thế đứng, đặt ước tượng kia, ong tủ kính, cũng không kém phần nghệ thuật nữ phái, ngón tay thon dài, tay mặt để thỏng xuống, tay ái đưa lên ngang ngực, đều có ấn quyết. Hai bên có hai bàn thờ Thập Điện Vương, mỗi bên 10 vị, 5 vị ngồi ước bằng đất nung sơn vàng, nhỏ, cũ hơn, 5 vị ngồi sau bằng đất sét nhiều màu, có râu cằm và êu mép. Áo, mũ giống nhau, mỗi vị có một bộ măt khác nhau nhưng đều nghiêm nghị như những ông quan ra tòa. Những tượng nầy có thể thỉnh từ hai dãy Thập Vương ở cạnh và bị phá đổ cùng lúc với điện Di Lặc. Phía sau điện thờ Địa Tạng, một tượng lớn bằng đồng vàng chói, ngồi ên ghế, tay ái đặt ên thành ghế, tay mặt một ấn quyết. Rất có thể tượng nầy lúc ước được đặt thờ ong điện Địa Tạng xây lại ên nền điện Di Lặc .

Vị ù ì sau cùng của chùa lãnh đạo Phật giáo Huế có tiếng tăm là Hòa thượng Thích Đôn Hậu có phần mộ và ngôi tháp sau cuối khu chùa, núp bóng dưới nhiều cây yên tĩnh. Một vị tu hành có tiếng khác là Hòa thượng Thích Quảng Đức, tự thiêu ở Sài Gòn ngày 11 tháng sáu năm 1963, hiện có mặt qua bảng giải thích bằng hai thứ tiếng Việt và Anh đặt ước một chiếc xe hơi đã chở Ngài. ong khuôn viên chùa còn có nhà bếp, vườn rau. Con Rùa Mốc thường được nhắc đến, ngày nay chỉ còn những đám gạch sụp đổ ngoài tường chùa. Sau cuối chùa còn có hai ngôi nhà xưa thấp thoáng ong lùm cây gợi lên ý nghĩ quang cảnh của ngọn đồi khi chùa mới được xây dựng thành. Với một kiến úc tuyệt diệu, những báu vật mỹ thuật, chùa Thiên Mụ thật là một kiệt tác nghệ thuật tinh vi vùng Phú Xuân hài hòa giữa môi ường êm dịu đất Thần Kinh. Tôi rất mừng khi nhà tôi chọn ngôi chùa quê tôi làm đề tài luận văn vì là một dịp để cô ta tìm hiểu sâu xa hơn tâm hồn Phật giáo nói chung, phong cách xứ Huế nói riêng, từ đấy tôi cũng hưởng lây được kiến thức mà cô ta đã gom góp. Khi luận văn được in thành sách (*) bà Hội ưởng Hội Những Người Bạn Viễn Đông AFAO không ngần ngại cho in dấu của Hội lên bìa sách với lời giới thiệu cho khách chỉ biết tiếng Pháp cần có cuốn sách nầy ong tay khi đến viếng Huế !

Mừng Phật Đản 2555
Xô thành tiềt Thanh minh 2011

Tham khảo

– (*) Vo Quang Liliane, Le temple de la Dame Céleste (Chùa Thiên Mụ) à Hué sanctuaire bouddhique et miroir de l’ancienne capitale du Vietnam, Université de Paris VII 1998, Cahiers de Péninsule 6 2004

– Nguyễn Đắc Xuân, Bốn ăm năm chùa Thiên Mụ, nxb Thuận Hóa Huế 1998

– Hà Xuân Liêm, Chùa Thiên Mụ, nxb Thuận Hóa Huế 1998

– Hà Xuân Dương, Kiến úc chùa Thiên Mụ, nxbĐà Nẵng 1998

– Phanxipăng, Leo tháp Phước Duyên, Tc Nghiên cứu và Phát iển 3(80) 2010 ; Chim Việt Cành Nam 42 2011

(Theo: Chim Việt Cành Nam)