Các Trường Học Ni ở Nam Bộ vào đầu thế kỷ XX

Theo tập tục dân tộc Việt Nam xưa, người nữ tuy là một bộ phận không thể thiếu trong tổ chức đời sống gia đình, nhưng lại có một vị trí rất khiêm tốn trong tổ chức xã hội. Vì vậy, họ ít được trang bị tri thức và học các ngành nghề.

Nữ giới là một bộ phận luôn phụ thuộc vào nam giới không thể tách rời độc lập. Câu nói ở cửa miệng mọi người, nhất là ở tầng lớp Nho giáo trí thức: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, đã minh chứng điều đó.

Ngay từ thời đức Phật còn tại thế, ni chúng đã được xem là một trong bốn chúng xuất gia của đệ tử Phật. Lòng từ bi bình đẳng của đức Thế Tôn là thế, nhưng khi đạo pháp truyền sang các nước láng giềng, có một số nước ni chúng không được dự vào hàng tăng. Ở Việt Nam ta, vấn đề ni giới không đến nỗi quá khe khắc như các nước truyền thống Nam Tông, nhưng vẫn theo quán lệ không coi trọng ni giới lắm, nên các vị ni trưởng nổi bật ít được ghi vào sử sách.

Đến đầu thế kỷ hai mươi, do hấp thụ văn hóa phương Tây, chữ quốc ngữ bắt đầu được dạy tại nhiều vùng nông thôn cả nước. Người phụ nữ con nhà giàu có được đi du học ở phương Tây, trở về phát huy sự hiểu biết của mình trong vai trò doanh nhân, kỹ sư, nhà báo, chen vai sát cánh với nam giới trong mọi công cuộc phát triển đất nước.

Riêng giới Phật giáo, sự học tập giáo nghĩa còn rất cục bộ ở dạng sư tư truyền thừa với tính cách các lớp gia giáo, ngoài các trường hương lâu lâu được mở một lần ở ngôi chùa nào đó. Sự học ở đấy thiên về hành trì theo nghi thức thiền môn hơn là mở rộng sự hiểu biết về tam tạng giáo điển.

Sự học của chư tăng tương đối hoàn thiện hơn như trong bài “Các trường Phật học ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ 20” đã nói trong số Suối nguồn 3&4.

Về phần chư ni, vì quan niệm trọng nam khinh nữ cổ hủ của ông cha ta mà nữ giới ít có cơ hội theo đòi nghiên bút thi thố tài năng với đời. Ở thế tục còn như thế, chốn thiền môn còn khe khắc hơn. Các đệ tử nữ xuất gia đầu tiên là phải công quả cho nhà chùa, mặc nhiên lãnh phần chuyên lo cơm nước cho đại chúng. Từ sáng đến trưa rồi lại chiều; công việc nối tiếp lăng xăng, các ni không có thì giờ rỗi rãnh học thuộc hai thời công phu để đi thọ trì cùng chư huynh đệ. Cũng vì lý do mặc nhiên phân công đó mà những năm đầu thế kỷ hai mươi ở Nam Bộ gần như không có vị nào được phong là ni sư, cũng như không có vị ni nào độc lập trụ trì một ngôi chùa được ghi chép lại.

Do ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, tăng ni có điều kiện tiếp thu đều có quyền tham gia học hỏi, trong giới xuất gia ở Nam Bộ mới lác đác xuất hiện một số ni cô có tài đức đứng ra mở lớp dạy học.

Theo thứ tự thời gian, từ nửa đầu thế kỷ 20, các ni trường lần lượt xuất hiện ở Nam Bộ gồm có:

1. Trường ni Giác Hoa.

Đầu tiên phải kể đến là lớp học ni giới mở ở chùa Giác Hoa năm 1927. Chùa Giác Hoa do cô Hồng Nga Diệu Ngọc đệ tử của Hòa thượng Như Hiển Chí Thiềng (Chí Thiềng chứ không phải Chí Thiền hay Trí Thiền. Chữ Thiềng là do chữ Thành đọc trại ra. Do đó chữ Thiềng viết phải có g ở sau.) chùa Phi Lai, thành lập vào năm 1919. Chùa tọa lạc tại làng Châu Hưng, huyện Thạch An, Bạc Liêu. Cô Nga là người Tàu, chữ Nga người Tàu đọc là Ngó, nên còn gọi chùa cô lập là chùa cô Hai Ngó.

Chùa này ban đầu dự định mở lớp gia giáo một năm, do:

Hòa thượng Chí Thiềng chùa Phi Lai chứng minh

Hòa thượng Chân Niệm chùa Trùng Khánh (Ninh Chữ, Phan Rang) làm pháp sư

Hòa thượng Vạn Ân chùa Hương Sơn Phú Yên làm giảng giáo

Yết ma Vạn Pháp chùa Kim Quang Phú Yên làm giảng giáo

Pháp sư Khánh Anh làm chánh thư ký kiêm trợ giáo.

Ni chúng được đài thọ ăn, mặc, ở đầy đủ. Kinh sách học thiếu chùa cho mượn. Cuối năm ôn bài, ai đọc suông cắt nghĩa được bộ kinh nào được tặng bộ kinh đó.

Đây là ni trường đầu tiên được thành lập ở Nam bộ. Trường được tổ chức nề nếp, học chúng theo học rất đông, có lúc gần 100 vị. Trong đó, có nhiều vị sau này tiếp tục con đường giáo dục hoặc lãnh đạo giáo hội, như:

Hồng Khoái Hữu Chí (Ni trưởng danh dự Ni bộ Nam Việt)

Hồng Tích Diệu Kim (Cố vấn ni bộ)

Hồng Thọ Diệu Tịnh (Giáo thọ ni đầu tiên ở Gia Định)

Như Hường (Kiểm soát ni viện Từ Nghiêm)

2. Trường ni Hải Ấn

Chùa Hải Ấn khởi nguyên có tên là Từ Hóa do bốn vị ni sư đồng tâm đồng chí: Diệu Tịnh, Diệu Tấn, Diệu Tánh và Diệu Thuận lập nên ở làng Tân Sơn Nhì vào năm 1934, sau dời về làng Tân Sơn Nhất đổi tên là Hải Ấn ni tự. Đây là ngôi chùa ni đầu tiên ở vùng Sài Gòn Gia Định.

Ni sư Diệu Tịnh dòng dõi Phạm Đăng ở Gò Công, đệ tử cầu pháp của hòa thượng Phi Lai. Khi học trường Giác Hoa, Bạc Liêu, được hòa thượng ban pháp danh Hồng Thọ, tự Diệu Tịnh. Mãn khóa Giác Hoa, ni sư về Gia Định theo học với hòa thượng Như Quới ở chùa Phước Tường. Sau đó thọ giới tại trường kỳ núi Điện Bà do hòa thượng Như Nhãn Từ Phong làm Đường đầu và theo học với hòa thượng cho đến lúc ngài viên tịch.

Ni sư từng dịch kinh Vu lan, Phổ môn, Pháp bảo đàn ấn tống. Ni sư là người có tài văn học, đã từng viết bài đăng tạp chí Từ bi âm, mục đích kêu gọi chấn hưng ni giới, mở lớp dạy chữ quốc ngữ và chữ Nho cho trẻ em, và mở lớp dạy ni chúng tại Búng, Lái Thiêu. Ni sư làm giáo thọ ni tại các trường hạ ni ở khắp Nam Kỳ Lục Tỉnh.

Năm 1933, trường hương chùa Giác Hoàng, Bà Điểm mãn hạ, ni sư lúc này mới 24 tuổi, được chư sơn phong chức giáo thọ, trở thành vị giáo thọ ni đầu tiên ở Nam Bộ.

Từ năm 1934, Hải Ấn ni tự do ni sư Diệu Tịnh chủ trì chuyên dạy Phật pháp cho các đệ tử ni tại chùa. Ban đầu học các kinh Nhật tụng, Di Đà, Hồng danh, Phổ môn bằng chữ Hán cắt nghĩa, kế đến học các vấn đề Phật pháp thông thường và tập cho ni chúng thuyết giảng. Đây là trường ni độc lập, vừa giáo dục vừa hoằng pháp, rất mới thời bấy giờ. Đệ tử ni ham học của các chùa đều được gởi về đây dự học.

Sau khi ni sư Diệu Tịnh viên tịch (1942) chùa Hải Ấn nằm trong khu vực sân bay giải tỏa, nên dời về địa điểm hiện nay ở 1/21 đường Âu Cơ, phường 14, quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh.

3. Trường Kim Huê

Tục gọi là chùa Bông, ở Tân Vĩnh Hòa, tỉnh Sadec, nay thuộc thị xã Sadec do hòa thượng Ngộ Giác Chánh Quả làm trụ trì. Hòa thượng là người hoằng luật và trì luật nổi tiếng ở Sadec lúc bấy giờ.

Từ Năm 1936, hòa thượng mở lớp dạy luật cho cả tăng ni các nơi theo học. Các môn học gồm có: Luật tứ phần, Đại luật, Luật Sa di, Phạm Võng, Trường a hàm, Qui nguyên trực chỉ.

Các ni chúng đương thời ở các tỉnh lân cận phần lớn đều có học ở đây; như:

Diệu Châu, chùa Thanh Lương, Sadec

Diệu Lý, chùa Từ Nguyên, Sadec

Diệu Nghĩa, chùa Hải Huệ, Sadec

Như Minh, chùa Bạch Vân, Bến Tre

Diệu Hoa, chùa Phước Huệ, Sadec

Tâm Nhàn, chùa Giác Thiên, Vĩnh Long

Diệu Tâm, chùa Vĩnh Bửu, Bến Tre

Phước Hiển, chùa Viên Quang, thành phố Hồ Chí Minh

4. Trường ni Giác Linh

Chùa này do bà Nguyễn Thị Trượng, pháp danh Diệu Tâm, thường gọi là bà Ba Xàng, đệ tử của hòa thượng Phi Lai Như Hiển Chí Thiềng, xây cất vào năm 1937. Bà là một điền chủ lớn ở Cái Tàu Hạ, Sadec. Theo sự hướng dẫn của cô Hồng Nga (cô Hai Ngó) bà phát tâm xây chùa Giác Linh giống như chùa Giác Hoa ở Bạc Liêu.

Năm 1940, bà phát tâm ủng hộ ni sư Diệu Tịnh mở ni trường tại chùa Giác Linh một năm.

Ni trường thỉnh:

Hòa thượng Thanh Kế Huệ Đăng chùa Thiên Thai, Bà Rịa chứng minh

Hòa thượng Đạt Thái Chánh Thành, chùa Vạn An làm pháp sư

Thượng tọa Mật Hiển chùa Trúc Lâm làm pháp sư

Ni sư Diệu Không làm giáo thọ

Ni sư Diệu Tịnh làm giáo thọ

Lớp học này ni chúng cả miền nam và miền trung đều qui tụ có đến trên 100 vị. Ni chúng từ đây mặc áo nhựt bình theo kiểu miền trung. Trước đó ni chúng miền nam mặc áo dài lỡ, cổ kiềng màu đen.

Trường dạy được ba tháng, bà ba Xàng do bất mãn điều gì hay có người điều ra tiếng vào sao đó mà tự ý không tiếp tục hổ trợ nữa. Trường coi như ngưng hoạt động.

Năm 1939 chùa được vua Bảo Đại ban cho biểu đề Sắc tứ Tân Hòa tự, vì chùa nằm trên xã Tân Hòa. Từ đó chùa có hai tên Giác Linh và Tân Hòa. Hiện nay người ta chỉ gọi là chùa Tân Hòa, nhưng tên thường gọi vẫn là chùa bà Ba Xàng.

1945-1947, cô Ba Xàng tổ chức ni trường lần hai, mời hòa thượng Khánh Anh giảng dạy. Học ni có các vị: Tịnh Khiết (Kim Liên – Khánh Hội); Như Hạnh, Như Hòa (Phật Tánh – Trà Ôn); Như Huy, Như Đức (Từ Vân – Phú Nhuận); Không Nguyệt, Giác Nhẫn (Giác Thiên – Vĩnh Long).

5. Trường ni Vạn An.

Âu, cũng là kinh nghiệm cho người làm việc lớn, nương tựa vào sức một người, khi gặp vô thường biến đổi dễ bị hụt hẫng vì sự đổi dời này. Ít ai có tâm hồn bố thí không vì lợi ích cho bản thân như ông Cấp Cô Độc thời đức Phật, nên dễ gặp hoàn cảnh như chùa Giác Linh thuở nọ.

Không được thuận duyên ở chùa Giác Linh, Ban lãnh đạo do ni sư Diệu Tịnh chịu trách nhiệm chẳng thể để ni chúng giải tán nửa chừng. Sẵn chùa Vạn An của hòa thượng Đạt Thái Chánh Thành đương kim pháp sư có vườn tược cây cối mát mẻ, ni chúng có thể tạm ở tu học được.

Do sự hoan hỷ hứa khả của hòa thượng Chánh Thành, Trường ni Vạn An được cấp tốc thành lập. Tuy trường tạm lợp bằng lá nhưng nhờ sự vận động của hòa thượng nên ni chúng được ủng hộ rất dồi dào, thỉnh thoảng ngày chúa nhật được chèo xuồng dạo chơi kinh rạch hái bần.

Sang chùa Vạn An thành phần Ban chứng minh vẫn như cũ.

Các môn học gồm có: Duy thức phương tiện đàm, Duy thức đích khoa học, Luận đại thừa bách pháp, Tứ phần luật, Tỳ ni hương nhũ, Viên giác lược sớ, Lăng Nghiêm kinh tập chú.

Ni chúng gồm có:

Chí Kiên, chùa Tập Thành, Sadec

Huyền Tông, Huyền Học, Huyền Phương, chùa Bình Quang, Phan Thiết

Diệu Hoa, chùa Phước Huệ, Sadec

Như Ngộ, chùa Phổ Đức, Mỹ Tho

Viên Minh, ni viện Diệu Quang, Nha Trang

Đàm Minh, chùa Bảo Quang, Đà Nẵng

Tâm Ấn, chùa Tâm Ấn, Quy Nhơn

Diệu Châu, chùa Thanh Lương, Sadec

Tâm Đăng, chùa Linh Sơn, Nha Trang

Như Hương, chùa Bảo Thắng, Hội An

Diệu Chơn, chùa Linh Thứu, Mỹ Tho

Diệu Lý, Diệu Nghĩa, Sadec

Cuối năm 1940 trường mãn khóa. Mọi người trở về trong hoan hỷ.

6. Trường ni Linh Phước

Năm 1941, bà Bang Biện mời ni sư Diệu Tịnh mở lớp gia giáo một năm tại chùa Linh Phước ở Cai Khoa, Sadec. Lúc mới mở, trường thỉnh cầu pháp sư Mật Hiển phụ trách giảng dạy. Ban đầu pháp sư đồng ý nhưng về sau vì lý do sức khỏe, pháp sư viết thư từ chối.

Ban giáo thọ gồm có:

Thầy Chánh Quang, Giác Tâm.

Cụ Huyền Cơ ở Bình Định vào có dạy một thời gian.

Ni sư Diệu Tịnh vì lý do sức khỏe nên dạy rất ít.

Học chúng là chư ni đã mãn khóa học ở trường Vạn An.

Cuối năm 1941 trường bế giảng.

7. Trường ni Phước Huệ

Năm 1941, Hòa thượng chùa Kim Huê Ngộ Giác Chánh Quả đưa số ni chúng gần ba mươi vị về chùa Phước Huệ giao cho ni sư Diệu Hoa Chơn Ngạn coi sóc. Phần Hòa thượng chỉ chuyên dạy luật cho ni chúng thôi. Ban giáo thọ ngoài hòa thượng còn có thầy Huệ Phương dạy luận, ni sư Diệu Hoa dạy duy thức. Năm 1947, do phong trào tiêu thổ kháng chiến chống Pháp, chùa Phước Huệ bị đốt ni trường tạm ngưn. Có một người trước cảnh hỏa thiêu Phước Huệ tự đã cảm tác:

Ngôi chùa Phước Huệ đẹp vô song

Đâu ngỡ giờ đây rụi lửa hồng

Tưởng đặng ngàn năm lưu vạn cổ

Nào hay một phút hóa hư không

Mấy cô nhen nhúm tua bền chí

Huynh đệ bình an chớ ngả lòng

Còn đất còn trời còn Phật đạo

Cuộc đời suy thịnh bởi Thiên công.

Có một ni cô theo học tại Phước Huệ họa lại:

Ruộng dâu còn biến đổi thành sông

Sao nỡ trách chi ngọn lửa hồng

Vạn vật chẳng ngoài câu tứ tướng

Xưa nay thành trụ hoại rồi không.

Phước Huệ nát tan âu đành thế

Việt Nam nô lệ mới đau lòng

Càng thiêu càng đốt càng nên thép

Lẽ đâu đổ tội tại Thiên công.

Năm 1946, ni sư Diệu Hoa Chơn Ngạn mở lại trường ni tại Phước Huệ. Trong thời buổi kinh tế khó khăn, ni sư bày ra làm tương chao tự túc kinh tế nhà chùa, chư ni vừa học kinh vừa lao động sản xuất. Nhờ khéo tổ chức, tương chao Phước Huệ nổi tiếng khắp Nam Kỳ Lục Tỉnh. Nhờ thế nhà chùa có đủ kinh phí duy trì lớp học, cho đến khi các trường ni do Giáo hội Tăng già Nam Việt thành lập và điều hành từ 1950.

Các học ni thời đó có:

Nhật Hữu

Diệu Châu chùa Thanh Lương

Chí Kiên chùa Thiền Quang

Giác Ngọc, chùa Phước Huệ

Diệu Lý chùa Từ Nguyên

Diệu Nghĩa chùa Hải Huệ

Chơn Thanh chùa Vạn Thành, Đất Sét

Thông Huệ chùa Linh Thứu, Mỹ Tho.

8. Trường ni Kim Sơn

Chùa Kim Sơn do bà Năm Chanh hiến cúng cho ni sư Diệu Tấn từ năm 1939. Năm 1940, ni sư Diệu Tấn mới bắt đầu mở trường thâu nhận ni chúng tu học. Ni sư là đệ tử của hòa thượng Phi Lai Như Hiển Chí Thiềng. Ni sư là con nhà quan chức ở Sadec quyết chí cắt đứt trần duyên xuất gia tìm đường giải thoát, chuyên tâm tu học, được thầy thương bạn mến. Trước khi viên tịch, năm 1933, Hòa thượng Phi Lai trao cho ni sư một cây thước bảng, gọi là để làm vật tùy thân và ứng duyên hóa đạo. Ni sư đã không nề cực khổ ra tận Huế tìm học với các bậc cao đức. Sau khi trở về mở lớp dạy học tại Kim Sơn. Ni chúng tựu học rất đông.

Các giáo thọ gồm:

Thầy Chí Thiện (1939) dạy kinh

Thầy Hành Trụ (1940) dạy kinh

Cụ Trần Huỳnh (dạy kinh Kim cang chư gia)

Ni sư Diệu Tấn dạy luật và duy thức

Trường do ba thí chủ: ông sếp Mạnh, bà Hộ Hiền và bà dược sĩ Thái Văn Hiệp ủng hộ mỗi tháng 20 đồng. Ngoài ra, ni chúng lãnh thêm đồ thêu, đan, móc của trường nữ công Mỹ Ngọc để tự túc. Trường Kim Sơn rất nổi tiếng lúc bây giờ, vì thời cuộc bất an nên ngưng hoạt động từ 1945.

Ni chúng thời ấy có:

Phổ Đức (Phổ Đức, Mỹ Tho)

Như Liên (Giác Hoa, Gò Vấp)

Như Đức (Kiều Đàm, Long Thành

Huyền Huệ (Tổng thư ký Ni bộ Nam Việt)

Diệu Hoa (Giám học Ni viện Từ Nghiêm)

v.v.

9. Trường ni Vĩnh Bửu

Chùa Vĩnh Bửu do hai ông hội đồng Tỉnh và Hoài thành lập ở chợ Thơm quận Mỏ Cày, Bến Tre. Năm 1940 chùa được cúng cho Hòa thượng Như Trí Khánh Hòa. Hòa thượng Khánh Hòa mở lớp dạy ni chúng tại đây, với kỷ luật rất nghiêm, thường có mặt trong thời khóa tu học của đại chúng để theo dõi kiểm soát.

Năm 1946 Hòa thượng Khánh Hòa trở về chùa Tuyên Linh với lý do già yếu, giao cho ni sư Hồng Huệ Diệu Ninh làm trụ trì coi sóc.

Ni chúng ở các tỉnh theo học rất đông:

Sadec có: Diệu Châu, Diệu Lý, Diệu Nghĩa, Giác Nhẫn

Mỹ Tho có: Như Ngộ

Sài Gòn có: Như Hạnh, Đàm Hương

Bến Tre có: Như Minh, Diệu Ninh, Tịnh Đắc, Diệu Tâm.

10. Trường ni Long Hòa

Chùa Long Hòa ở Tiểu Cần, Trà Vinh do Hòa thượng Huệ Quang sáng lập. Năm 1945, Hòa thượng mở trường dạy ni chúng do Phật tử Triệu Huệ Trí cúng dường phần ngoại hộ. Thành phần giảng dạy gồm có: Hòa thượng Khánh Anh dạy chính thức, các thầy Chí Đạt, Quảng Minh, Hiển Thụy trợ giáo. Trường dạy chưa đầy năm bị nạn “dậy sóc” (“cáp duồng”) đe dọa an ninh các học ni nên đành phải giải tán.

Học ni lớp bây giờ là các ni trưởng:

Như Huy (chùa Từ Vân, Phú Nhuận)

Như Hoa (chùa Viên Giác, Bình Chánh)

Như Đức (chùa Kiều Đàm, Long Thành)

Như Phú (chùa Kim Sơn, Phú Nhuận)

11. Trường ni Huê Lâm – 1947

Năm 1945, ông bà huyện Nguyễn Kỳ Sắc hiến cúng chùa Huê Lâm cho ni sư Hồng Ẩn Diệu Tánh.

Năm 1947, trường ni Huê Lâm mới bắt đầu hoạt động. Do hoàn cảnh bất ổn của chiến tranh, sinh hoạt trường lớp khó phát triển, trường chỉ hoạt động với tính cách gia giáo, dạy nội bộ thôi. Nhưng với tinh thần kỷ luật rất nghiêm, trường Huê Lâm tồn tại đến khi Giáo hội Tăng già thành lập ni trường. Từ đó ni chúng theo học tại các trường do giáo hội lập.

12. Trường ni Tăng Già

Năm 1946, Hòa thượng Hành Trụ và hai thân hữu Thiện Tường, Thới An từ Sadec về Vĩnh Hội mướn đất Chà lập ngôi chùa Tăng Già ở gần hãng thuốc lá Mic để ở và dạy các tăng ni theo học.

Năm 1947, nhận thấy sĩ số mỗi ngày một đông, Hòa thượng Hành Trụ giao cho Hòa thượng Thiện Tường tìm thuê một miếng đất ruộng ở gần đó lập nên ngôi chùa để chư tăng tu học lấy tên là chùa Giác Nguyên.

Từ năm 1947, trường Tăng Già chỉ dạy riêng cho ni chúng. Ngoài Hòa thượng Hành Trụ dạy Kinh bộ còn có sự trợ giảng của thầy Huệ Phương, một cựu học tăng ở trường Báo Quốc Huế dạy Duy Thức học và các bộ Luận. Thời đó, ni chúng dư học gồm có các ni sư, sư cô: Huyền Huệ, Huyền Phương, Viên Huy, Đạt Lý và các đệ tử của hòa thượng: Tịnh Ý, Tịnh Quang, Tịnh Hạnh, Tịnh Huệ, Tịnh Khiết, Tịnh Nguyệt, Tịnh Đức, Tịnh Chánh, Tịnh Thành, Tịnh Danh v.v.

Bắt đầu từ năm 1952, trường ni Từ Nghiêm do Giáo hội Tăng Già Nam Việt thành lập và quản lý. Học chúng các trường ni ở Nam Bộ đều theo học ở các trường học có qui củ do giáo hội tổ chức.

Trường Tăng già chỉ giữ nhiệm vụ đào tạo những người mới xuất gia.

Năm 1962, chùa bị hỏa hoạn, ban tái thiết xin hòa thượng đổi tên chùa Tăng già thành Kim Liên ni tự.

TẠM KẾT

Tóm lại, từ đầu thế kỷ 20, ni giới chưa được chú trọng phát triển do những điều kiện, tập tục như đã nêu ở phần đầu. Bắt đầu năm 1927, trường ni Giác Hoa khai mở, một sự kiện mới thức tỉnh lòng tự tin, ý thức cầu tiến vượt khó của ni chúng và nhất là được sự hỗ trợ của chư tôn hòa thượng có tư tưởng tiến bộ hết lòng dạy dỗ. Các trường ni lần lượt hình thành, tuy thời gian chỉ giới hạn một năm lúc ban đầu, nhưng cũng đã ươm mầm cho các trường ni dài lâu hơn trong những năm sau.

Mãi đến khi giáo hội Tăng già Nam Việt thành lập trường dạy ni ở chùa Từ Nghiêm với tổ chức hợp lý, học hành theo chương trình qui củ nhất định, chư ni theo học các ni trường ở các thập niên trước hình thành một ban giáo thọ, trợ giúp chư tôn đức giảng dạy các trường ni của giáo hội hiệu quả hơn.

TRƯỜNG CHỦ TRƯƠNG HỖ TRỢ CHỨNG MINH GIẢNG DẠY HỌC NI THÀNH DANH THỜI GIAN ĐỊA ĐIỂM HIỆN NAY
Giác Hoa Ni sư Hồng Nga Diệu Ngọc (Hai Ngó) Ni sư Hồng Nga Diệu Ngọc Như Hiển Chí Thiềng, Khánh Anh, Chân Niệm, Vạn Ân… Hồng Khoái Hữu Chí, Hồng Thọ Diệu Tịnh, Diệu Kim, Như Hưởng 1927 -1945 Xóm Lớn, xã Châu Thới, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu
Hải Ấn Ni sư Diệu Tịnh 1934-1941

1945-2005

Tân Sơn Hòa – Tân Phú, TP.HCM
Kim Huê Hòa thượng Ngộ Giác Chánh Quả Ngộ Giác Chánh Quả Diệu Châu, Diệu Lý, Diệu Nghĩa… 1936 – Chùa Kim Huê, Sadec, Đồng Tháp.
Giác Linh Ni sư Diệu Tịnh Cô Ba Xàng Huệ Đăng, Chánh Thành, Mật Hiển, Diệu Không, Diệu Tịnh. Bộ phận ni chúng học ở chùa Kim Huê 1940 – (ngưng giữa chừng chuyển qua Vạn An) Chùa Tân Hòa, Cái Tàu Hạ, Sadec, Đồng Tháp
Vạn An Ni sư Diệu Tịnh Hòa thượng Đạt Thái Chánh Thành Huệ Đăng, Chánh Thành, Diệu Không, Diệu Tịnh. Chí Kiên, Huyền Tông, Diệu Hoa, Viên Minh, Đàm Minh… 1940-1941 Chùa Vạn An, Đồng Tháp
Linh Phước Ni sư Diệu Tịnh Bà Bang Biện Chánh Quang, Giác Tâm, Huyền Cơ, Diệu Tịnh 1941 (tiếp quản trường Vạn An) Chùa Linh Phước, Cai Khoa, Sadec, Đồng Tháp
Phước Huệ Ni sư Diệu Hoa Chơn Ngạn Tự túc bằng hãng nước tương Ngộ Giác Chánh Quả

Huệ Phương, Diệu Hoa

Nhật Hữu, Diệu Châu, Như Ngọc, Chơn Thanh… 1941-1945,

1945-1956

Chùa Phước Huệ, Sadec, Đồng Tháp
Kim Sơn Ni sư Diệu Tấn Bà Năm Chanh, sếp Mạnh, bà Hộ Hiền, Thái Văn Hiệp Chí Thiện, Hành Trụ, Trần Huỳnh, Diệu Tấn Huyền Huệ, Huyền Huy, Đạt Định 1940-1945 Đường Phan Xích Long, Phú Nhuận, TP.HCM
Vĩnh Bửu Hòa thượng Như Trí Khánh Hòa, Ní sư Hồng Huệ Diệu Ninh Như Trí Khánh Hòa, Hồng Huệ Diệu Ninh Diệu Châu, Diệu Lý, Như Ngộ, Như Hạnh, Như Minh… 1940- Chùa Vĩnh Bửu, Mỏ Cày, Bến Tre
Long Hòa Hòa thượng Huệ Quang Phật tử Triệu Huệ Trí Khánh Anh, Chí Đạt, Quảng Minh, Hiển Thụy Như Huy, Như Hoa, Như Đức, Như Phú 1945 Chùa Long Hòa, Tiểu Cần, Trà Vinh
Huê Lâm Hồng Huệ Diệu Tánh Nguyễn Kỳ Sắc Hồng Huệ Diệu Tánh 1947 – 1956 Chùa Huê Lâm, Q. 11, TP.HCM
Tăng Già Hòa thượng Hành Trụ Hành Trụ, Huệ Phương Huyền Huệ, Huyền Phương, Viên Huy, Đạt Lý 1947 – 1952 Chùa Kim Liên, Q.4, TP.HCM

Thích Minh Cảnh (Nguồn: Đặc San Suối Nguồn – số V – Tu Viện Huệ Quang)

Ảnh tư liệu:

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Thích Nữ Như Đức, Lịch sử ni giới Bắc tông Việt Nam, Nxb Tôn Giáo, 2009.

[2] Thích Như Nguyệt, Hành trạng chư ni Việt Nam, Nxb Tôn Giáo, 2007.

[3] Vân Thanh, Lược khảo Phật giáo sử Việt Nam. PL.2518.

[4] Phật học đường Nam Việt, Tập kỷ niệm Phật học đường Nam Việt, 1958.

[5] Tự truyện của ni trưởng Diệu Tịnh, tư liệu chùa Hải Ấn.

[6] Điền dã:

Đồng Tháp: Chùa Kim Huê, Vạn An, Phước Huệ, Tân Hòa…

Thành phố Hồ Chí Minh: chùa Hải Ấn, Giác Nguyên…

[7] Tham vấn: ni trưởng Giác Ngọc chùa Phước Huệ; ni trưởng Huyền Huệ chùa Hải Ấn; thầy Như Ngọc, cựu hiệu trưởng trường Bồ Đề Sadec; hòa thượng Thích Minh Thanh chùa Bửu Sơn, Xóm Vôi, Q.5.