Các loại hình nghệ thuật trong nền văn hóa Phật giáo

Văn hóa, nói theo nghĩa đen của nó, là dùng cái đẹp (văn) để giáo hóa người. Phật giáo lấy việc độ sanh làm cứu cánh, do đó văn hóa được xem như nền tảng của Phật giáo. Văn hóa (Culture) bao hàm các phương diện xã hội như khoa học, nghệ thuật, tôn giáo, đạo đức, pháp luật, phong tục, tập quán v.v… Trong bài viết này, người viết chỉ xin trình bày về các loại hình nghệ thuật trong nền văn hóa Phật giáo.

Ngay cả việc trình bày các loại hình nghệ thuật của Phật giáo trong một bài viết cũng đã là một tham vọng quá lớn. Bởi trải qua hơn 2500 năm lịch sử và xuyên qua nhiều quốc gia, các loại hình nghệ thuật cứ được đa dạng hóa và phong phú thêm rất nhiều. Đó là chưa nói đến những giá trị tư tưởng, triết học, mỹ học của từng tác phẩm nghệ thuật cụ thể. Ở đây chúng tôi chỉ giới thiệu sơ qua như một phác họa để độc giả có cơ sở tìm hiểu và nghiên cứu thêm.

Điều phức tạp nhất là mỗi loại hình nghệ thuật qua mỗi thời đại và quốc gia đều có sự thay đổi khác nhau. Do vậy, khi đề cập đến phần nào, buộc lòng chúng tôi phải giới thiệu sơ qua sự quan hệ lịch sử, quan niệm của các tông phái qua từng thời kỳ trong phạm vi ngắn gọn nhất có thể. Về việc sắp xếp các loại hình nghệ thuật, chúng tôi theo quan niệm phổ thông để xếp theo thứ tự hội họa, văn học, thi ca, âm nhạc, kiến trúc, điêu khắc và công mỹ nghệ. Còn rất nhiều lãnh vực khác như vũ đạo, kịch nghệ …, chúng tôi không thể nói hết, song những lãnh vực nêu trên có thể đại biểu cho nghệ thuật Phật giáo. Trong ấy, những lãnh vực như văn học, thi ca, hội họa là những đề tài lớn và được rất nhiều sách báo nghiên cứu, phân tích, ở đây chúng tôi chỉ khái quát mà thôi.

Trước hết chúng ta tìm hiểu sơ qua quá trình phát triển của Nghệ thuật Phật giáo. Trong Ngũ minh của Ấn Độ có Công xảo minh, tức giỏi về công phu khéo léo. Thời kỳ đầu, nghệ thuật Phật giáo chỉ hạn chế trong các bức vẽ hoặc điêu khắc về chân Phật, tòa Kim cang, cội Bồ-đề … để tượng trưng cho Đức Phật. Đến khi Phật giáo Đại thừa phát triển, nhờ sự tiến bộ của xã hội mà hình tượng Phật được tôn tạo, các loại hình nghệ thuật khác cũng theo đó mà phát triển. Nghệ thuật Phật giáo Ấn Độ có thể được chia làm hai loại là Nghệ thuật Kiền-đà-la và Nghệ thuật đặc hữu của Phật giáo với tính chất vốn có ban sơ của nó. Đến thời Vương triều Cấp-đa (Gupta – 302), nghệ thuật Kiền-đà-la nương vào Phật giáo mà phát triển, lan rộng đến Trung Quốc và chịu ít nhiều ảnh hưởng của nền văn hóa này. Nói theo phạm vi rộng lớn thì nghệ thuật Phật giáo có thể chia thành ba hệ thống. Đó là Tiểu thừa, Đại thừa và Mật giáo.

Chủ thể của nghệ thuật Phật giáo Tiểu thừa là các kiến trúc tháp Phật y cứ vào sự sùng bái các di vật của Phật giáo thời kỳ đầu làm nền tảng. Còn các lãnh vực hội họa, điêu khắc thì thường lấy Bản sanh đàm, sự tích, thí dụ làm chủ đề. Nền nghệ thuật này khá căn bản nhưng không phong phú lắm, được phát triển tương đối thuần phác ở các nước theo hệ Phật giáo Nam truyền như Tích Lan, và các nước Đông Nam Á.

Nghệ thuật Phật giáo Đại thừa lấy việc chế tác và sùng bái tôn tượng làm trung tâm. Bắt nguồn từ Ấn Độ, qua Trung Á rồi phát triển đến Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam … Nhưng ở thời kỳ đầu thì sắc thái Tiểu thừa ở Trung Á và Trung Quốc rất sâu đậm.

Nghệ thuật Mật giáo bắt đầu ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ VII, trong đó có một dòng phái trải qua Trung Quốc rồi truyền đến Nhật Bản, trở thành dòng phái nghệ thuật chính của thời đại Bình An, Liêm Thương ở Nhật Bản. Dòng phái còn lại trải qua Népal rồi truyền đến Tây Tạng và trở thành đặc hữu của Lạt-ma giáo.

Tùy theo sự phát triển về tư tưởng của các tông phái mà có sự ra đời các nền nghệ thuật của riêng tông phái mình. Chúng ta bắt đầu tìm hiểu từng loại hình nghệ thuật để cuối cùng rút ra một nhận định chung.

HỘI HỌA

Hội họa đã xuất hiện ở Ấn Độ từ xa xưa. Các bích họa trong động A-chiên-đa được xem là nghệ thuật hội họa có sớm nhất của Phật giáo hiện còn. Như bức vẽ con voi trắng 6 ngà trong động thứ 10 được truy cứu là tác phẩm có trước Công nguyên. Các bức họa xuất hiện vào khoảng thế kỷ V-VII tại đây vẫn còn được bảo tồn. Điểm đặc sắc của các tác phẩm này là sự đối ứng sáng tối tạo nên hiệu quả lập thể. Bức họa cúng dường Thiên nhân trong động Sìgiriya ở Srì Lanka được suy đoán là tác phẩm của thế kỷ V, còn rất nhiều tác phẩm khác mà phong cách của nó ảnh hưởng sâu rộng đến nghệ thuật hội họa của các nước sau này. Cách vẽ hình tượng Phật ở thời kỳ đầu cũng có một phong cách đặc biệt, thường dùng làm Bản tôn, pháp cụ hay để trang nghiêm Phật đường, nên thường ở giữa vẽ tượng Phật, phía dưới viết bài văn Tam quy y, rồi 5 học xứ, 12 nhân duyên, phía trên tượng cũng có viết hai bài tụng. Nói chung, hình thể, dung mạo các tượng đều giống nhau, cho nên muốn phân biệt các vị Phật thì chủ yếu là dựa vào “thủ ấn” của từng vị mới biết đó là vị nào. Về tướng hảo, nói chung cũng có một nguyên tắc. Ví dụ kim thân cao 120cm thì phần nhục kế phải cao 4cm, khuôn mặt dài 12cm, cổ dài 4cm …

Ở Trung Quốc, các danh họa nhiều đời cũng thường vẽ nhiều bích họa cho các tự viện. Nổi tiếng có các vị Cố Khải Chi, Lục Thám Vi, Trương Tăng Dao, Viên Tử Ngang, Ngô Đạo Tử, Lý Công Lân … Nhưng tiếc vì các chùa phần nhiều được xây cất bằng gạch và gỗ nên thường dễ bị hủy hoại. Chỉ có các bích họa trong các hang động như Đôn Hoàng, Thổ Phồn … là may mắn thoát khỏi nạn binh lửa. Ngoài ra, tranh thủy mặc được xem là phong cách đặc hữu của Thiền tông Trung Quốc, chỉ với hai mầu đen trắng mà phát họa được tinh thần khai phóng của tâm linh cũng như làm cho thế giới ngoại tại sống động, lung linh. Từ đời Tống về sau, các bích họa khổ lớn dần dần ít đi, được thay thế bằng tượng Tổ sư, La hán. Mặc hội và thư pháp nhân đó cũng phát triển. Đại biểu cho Thiền họa có các vị Mục Khê, Lương Giai, Thạch Đào, Bát Đại Tiên Nhân, Tiệm Giang, Ngọc Giản. Kỷ xảo hội họa của các vị này có ảnh hưởng rất lớn trong giới họa sĩ. Thạch Đào nổi tiếng với “Nhất bút họa”, một nét bút thôi cũng đã để lại cho hậu thế một bức tranh có một không hai. Ở Nhật Bản, vào thời Thất Đinh (thế kỷ XV), giới Thiền họa mô phỏng theo mặc họa đời Tống của Trung Quốc phát triển rực rỡ, nổi tiếng có các vị Như Chuyết, Chu Văn, Tuyết Chu …

Tóm lại, nghệ thuật hội họa Phật giáo tập trung ở chủ đề miêu tả Phật tượng, Tổ sư, về sau phát triển và mượn ngoại cảnh để biểu hiện nội tâm. Tuy không phong phú về hình thể, song nó là kho tàng quý báu về hội họa của Đông phương.

VĂN HỌC

Nói đến văn học nghĩa là nói đến tính nghệ thuật trong văn chương, do đó không phải toàn bộ kinh sách Phật giáo đều có tính văn học. Nhưng Phật giáo thật sự có một nền văn học thật là hoành tráng.

Vào thời kỳ đầu, kinh điển của Phật giáo giàu sắc thái văn học nhất là KINH PHÁP CÚ. Những lời vàng ngọc của Đức Như Lai được cô đọng lại thành những câu kệ vừa trong sáng, vừa sâu sắc. KINH THÍ DỤ, KINH BẢN SANH cũng là những tác phẩm văn học đậm đà tính chất cổ tích. Các tác phẩm viết bằng tiếng Phạn nổi tiếng có PHẬT SỞ HÀNH TÁN (Buddha-carata) của ngài Mã Minh (Asùvaghosïa) sống vào thế kỷ thứ II tán thán Đức Phật. Hý khúc XÁ-LỢI-PHẤT CHI SỞ THUYẾT (SÙàriputra-pracaranïa) viết về ngài Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên, TÔN-ĐÀ-LỢI NAN-ĐÀ THI (Saundarananda-Kàvya) nói về sự tích em cùng cha khác mẹ của Phật là Nan-đà. Đây là những tác phẩm văn học có từ rất sớm. Vào thế kỷ VII có vua Giới Nhật (SÙìlàditya) soạn Phật kịch LONG VƯƠNG CHI HỶ (Nàgànanda) … Các tác phẩm viết bằng văn Pàli nổi tiếng nhất là các bộ PHÁP CÚ KINH CHÚ, BẢN SANH KINH do ngài Phật Âm (Buddha Ghosa) soạn vào thế kỷ V. Khi Đại thừa phát triển, kinh điển Phật giáo trở thành một kho tàng quý báu về văn học, như KINH DUY-MA, KINH PHÁP HOA, KINH HOA NGHIÊM … vừa phong phú về ngôn từ hình ảnh, vừa thoáng đạt trong cách nghĩ, cách nhìn …, nó trở thành những tác phẩm văn học vĩ đại và tráng lệ nhất của nhân loại.

Về sau, văn học Phật giáo cũng phát triển theo chiều hướng rộng dần, nhất là các nước theo văn hệ Đại thừa như Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam … Các bộ luận lớn liên tiếp xuất hiện với một văn phong chặt chẽ, khúc chiết, rồi các bộ Ngữ lục, thi kệ, văn thị chúng, sớ giải, sử truyện … mỗi loại có một sắc thái riêng, vô cùng đa dạng và đặc biệt. Ngoài ra, các tác phẩm dịch thuật cũng nói lên tính chất đặc thù của văn học Phật giáo. Khi chuyển ngữ từ Phạn sang Hán hay sang các ngôn ngữ khác, các dịch giả đều sáng tạo một phong thái dịch thuật đặc biệt mà qua đó, các nhà khảo sát có thể nhận định và tìm ra nét dị đồng của tác phẩm phiên dịch, hoặc Cựu, hoặc Tân, hoặc dịch sát, dịch ý … Nếu như tính biền ngẫu là nét đặc sắc của Phật giáo Trung Quốc, thì tính giản đơn là nét đặc thù của văn học Phật giáo Nhật Bản, hay tinh thần phóng khoáng là sở trường của các ngòi bút Phật giáo Việt Nam … Sự khảo cứu có thể nói vô cùng, vô tận …

THI CA

Tách thi ca ra khỏi văn học là không đúng, bởi thực chất các tác phẩm thi ca lại có tính văn học đại biểu nhất. Song vì để phân biệt rõ thể tài, chúng tôi mạo muội được trình bày riêng phần thi ca Phật giáo để tiện nêu vài dẫn chứng.

Thi ca là một loại văn vần, ngôn từ hàm súc, chuyển tải nội dung sâu sắc. Tác dụng của thi ca là nhằm răn bảo nhân sinh, hoặc miêu tả trạng thái nội tâm, hoặc thuật lại sự vật với một thể điệu riêng. Nói chung, đó là một nét đẹp giao cảm giữa cảnh vật tự nhiên và nội tại, do đó trong Phật giáo, thể tài thi ca vô cùng phong phú.

Ở Ấn Độ, hình thức ban sơ của thi ca được gọi là Già-đà (Phạn : Gàthà), dịch ý là Kệ tụng. Về thể luật, kệ tụng có nhiều thể khác nhau. Thơ Phật giáo xưa nhất là PHÁP CÚ KINH (Pàli : Dhamma-pada) và TẬP KINH (Pàli : Suttanipàta). Bản thân Đức Phật là một thi nhân kiệt xuất. Trong kinh điển của Phật giáo Nguyên thủy, những gì được suy đoán là do chính Đức Phật nói ra đều dùng hình thức thi kệ. Hình thức văn thể đặc thù này có lẽ do đương thời không dùng văn tự để ghi chép, nhưng để tiện cho việc ghi nhớ nên sử dụng hình thức thi kệ. Đệ tử của Đức Phật phần đông đều biết làm thơ, dùng thi ca để xướng vịnh tâm cảnh của mình, tán thán Phật và đệ tử Ngài. Loại thi kệ này còn truyền đến nay có TRƯỞNG LÃO KỆ (Thera – gàthà), TRƯỞNG LÃO NI KỆ (Therì – gàthà). Kinh Tăng Nhất A-hàm 3 (Đại 2, 557 trung) ghi : “Vị Tỳ-kheo bậc nhất trong hàng Thanh văn của ta (…) có tài làm kệ tụng để khen ngợi công đức Như Lai, đó chính là Tỳ-kheo Bàng-kỳ-xá (Vangìsa)”… Sau Đức Phật nhập diệt khoảng 700 năm, thi ca Phật giáo được sáng tác rất nhiều thể theo sự hưng khởi của Đại thừa, nổi tiếng nhất là ngài Mã Minh (Phạn : Asùvaghosa). Ngài được xem là một thi nhân có phong cách tao nhã, tài hoa. Đặc tính của thi ca thời này là Tự Sự Thi. Về sau, một thi nhân thuộc học phái Mã Minh là Màtrïcetïa có soạn TỨ BÁCH TÁN (Catuhï-sùataka-stotra) và NHẤT BÁCH NGŨ THẬP TÁN PHẬT TỤNG (SÙata-panõcasùatikà-stotra) rất nổi tiếng. Trong Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện, ngài Nghĩa Tịnh từng viết : “Các nhà soạn tán tụng ở Tây Vực đều noi theo phong cách này, Bồ-tát Vô Trước, Thế Thân thảy đều kính ngưỡng…”. Thế kỷ VII có BẢN SANH MAN LUẬN (Jàtakamàlà) của ngài Thánh Dũng (Àryasùùra), thế kỷ XI có THÍ DỤ TẬP (Avadàna-kalpalatà) của Ksïemendra … Nhìn chung, thi ca Ấn Độ rất phong phú và đa dạng.

Ở Trung Quốc, thi ca Phật giáo phần lớn miêu tả tâm cảnh khai ngộ của Thiền tăng. Qua các triều đại Đường Tống …, thi ca Phật giáo nhiều vô số kể, hoặc những bài rải rác trong các Ngữ lục, hoặc những áng thơ gom thành thi tập, hoặc những trường ca chuyển tải nội dung chứng đạo v.v… Các thi nhân nổi tiếng đời Đường như Vương Duy, Bạch Cư Dị đã để lại rất nhiều thơ có phong vị Phật giáo. HÀN SAN THI 3 quyển là một tập thơ đặc biệt của một vị tăng kỳ lạ trụ trong hang đá lạnh lẽo ở chùa Quốc Thanh, núi Thiên Thai. Tuyết Đậu Trùng Hiển (980 – 1052) là một Thiền sư có tài làm thi kệ nổi tiếng, được giới hàn mặc ngợi khen là có phong cách của Hàn Lâm Học Sĩ. Như trong công án “Bàn Sơn tam giới vô pháp”, tắc 37, Bích Nham Lục (Đại 48, 175 trung), Tuyết Đậu viết :

“Tam giới vô pháp

Hà  xứ  cầu  tâm

Bạch  vân  vi  cái

Lưu tuyền tác cầm

Nhất khúc lưỡng khúc vô nhân hội

Vũ quá dạ đường thu thủy thâm”.

(Ba cõi không một pháp

Tìm tâm chỗ nào đây

Cung đàn là tiếng suối

Tàn lọng là vầng mây

Nhạc tuôn mấy khúc ai hay

Mưa qua cồn lạnh, đêm dày nước sâu).

Ở Nhật Bản, qua các thời đại Thất Đinh, Liêm Thương, Giang Hộ, thi ca Phật giáo cũng rất phong phú, nổi tiếng nhất là thể thơ Hài cú (Haiku) của Basho. Chỉ cần 17 âm tiết, tác giả có thể diễn đạt được sự im lặng tuyệt đối, trạng thái tịch nhiên bất động của Thiền định hay dòng chảy miên trường của vạn pháp tồn sinh :

“Một vũng lầy hiu hắt
Một con ếch nhảy vào
Và tiếng nước ôi chao !

(Basho – Tuệ Sỹ dịch).

Có lúc, thi ca dùng để biểu đạt một chân lý, thân phận con người như hoa đào trôi dạt giữa dòng sông nghiệp dĩ :

“Nhất thân liêu liêu đam chẩm khảm

Mộng  hồn  kỷ  hồi  trục  thắng  du

Kim triêu bệnh khởi lập giang thượng

Vô  hạn  đào  hoa  trục  thủy  lưu”.

(BỆNH KHỞI – Thiền sư Lương Khoan)

(Thân tàn lẳng lặng gối chăn

Chập chờn hồn mộng mấy lần dạo chơi

Sáng nay bệnh đã khỏi rồi

Bên sông nước chảy đào trôi nghìn trùng).

Đôi khi, thi ca Phật giáo cũng diễn đạt tình cảm, luân lý đời thường :

“Trục nguyệt thừa phong xuất trúc phiến

Cố sơn hữu mẫu triêm lệ y

Tùng giang nhất lệ minh như đán

Dao tri ỷ môn vọng ngã quy”.

(ĐỐI NGUYỆT TƯ QUY – Thiền sư Nguyên Chính).

(Gió rung liếp cửa tre gầy
Quê nhà áo mẹ thấm đầy lệ mong
Đường tùng rạng ánh trăng trong
Biết chăng bên cửa mẹ trông con về).

Ở Việt Nam, hòa với tâm cảm chung của hồn thơ Đông Á, Thi ca Phật giáo cũng bát ngát sắc hương giữa tự tình dân tộc. Những Thiền sư phần nhiều đều có sáng tác thi văn, biểu hiện tính sáng tạo độc lập, sự nội chứng trát vời siêu tuyệt và phong cách tự tại an nhiên. Qua các triều đại trầm hùng của lịch sử như Lý, Trần, thi ca Phật giáo rạng ngời với tên tuổi của những Thiền sư Vạn Hạnh, Mãn Giác, Viên Chiếu, Huyền Quang …

“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô

Nhậm vận thịnh suy vô bố úy

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”.

(Thiền sư Vạn Hạnh)

(Tấm thân như ánh chớp lòa
Cây xuân tươi tốt thu qua rụng rời
Thịnh suy mặc kệ đổi dời
Thịnh suy tợ hạt sương phơi đầu cành).

Hay :

“Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”.
(Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai).

Tóm lại, tùy theo mỗi không gian và thời gian, tùy theo cảm quan nội tại của từng tác giả, thi ca Phật giáo đã trở thành một kho tàng quý báu trong rừng hoa văn học nghệ thuật của nhân loại.

ÂM NHẠC

Âm nhạc Phật giáo kế thừa nền âm nhạc cổ điển Ấn Độ, xuất hiện vào khoảng 2000 năm đến 1500 trước Tây lịch. Đầu tiên là bộ SA-MA PHỆ-ĐÀ (Sàma-veda) nói về cách ca vịnh Lê-câu Phệ-đà, từ đó đặt ra nền tảng cho Thanh minh, Phạn bái. Phật giáo kế thừa phương pháp này và đặt ra Già-đà (Gàthà, Hán dịch là Cô khởi tụng). Về sau, ngài Mã Minh soạn hý khúc ca ngợi Đức Thích Tôn; ngài Long Thọ soạn các bài tán ca vịnh Kim cang.

Vào thế kỷ II, âm nhạc Phật giáo đã phát triển mạnh mẽ, đến thế kỷ V – VI thì rất hưng thịnh, truyền sang các nước Tây Vực, Trung Quốc, thúc đẩy nền vũ nhạc cung đình nhà Đường phát triển cao độ. Vở ca kịch đại quy mô đầu tiên của Phật giáo là Long vương chi hỷ (Nagananda) do vua Giới Nhật soạn vào thế kỷ VII. Đến đời vua Vũ Đế (nhà Ngụy, Trung Quốc), ông Tào Thực (Trần Tư Vương), một thiên tài về âm nhạc vốn rất say mê Phạn khúc, ông từng sáng chế pháp Phạn bái tại Ngư Sơn, huyện Đông A, tỉnh Sơn Đông. Nền tảng Thanh minh Trung Quốc từ đây mới được thiết lập, thay vì dùng cách ca xướng “Thất âm giai” như Ấn Độ thì Trung Quốc dùng “Ngũ âm giai”. Nhật Bản cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều Phạn bái Ấn Độ, như Thanh minh của Nhật Bản hiện đại vốn thuần túy Phật giáo, không bị dân gian hóa như Phạn bái của Trung Quốc.

Ngoài Phạn bái của Trung Quốc thì âm nhạc Phật giáo không có sáng tạo nào lớn. Năm 736, ở Nhật Bản có truyền bá một nghiên cứu về vũ nhạc Ấn Độ của một vị tăng thuộc nước Lâm Ấp (tên một nước nhỏ ngày xưa, có lẽ là ở vùng miền Trung Việt Nam hiện nay) tên là Phật Triết (Fattriet), rất nổi tiếng. Các nước Thái Lan, Campuchia cũng có sử dụng vũ nhạc với nhạc khí khác với hình thái nguyên thủy ở Ấn Độ, phần lớn là dùng nhạc khí thuộc hệ thống Nam Dương.

Âm nhạc Phật giáo phát triển theo sự truyền bá giáo lý, truyền đến các nước Đông Nam Á và mang tính chất đặc thù của mỗi dân tộc. Các nước Phật giáo theo hệ Bắc truyền thì ngoài những loại hình âm nhạc mang tính chất phổ cập, Phạn bái được sử dụng rất sinh động trong nghi thức lễ tụng, mỗi miền có mỗi âm điệu riêng biệt, vừa sáng tạo, thiền vị, vừa dễ thu phục lòng người.

Nhạc khí được sử dụng trong âm nhạc Phật giáo cũng rất đa dạng. Thông thường có ba loại : Huyền (Vìnïà), quản (Vamïsùì) và đả (Dundubhi). Từ thế kỷ II về sau có sử dụng thêm đàn Tỳ bà 5 dây, hoặc Trang-ân (Tsaun, xưa có 7 dây, nay thường dùng 13 dây). Khi âm nhạc Phật giáo truyền sang các nước khác thì thường sử dụng kết hợp với các nhạc khí đặc biệt của mỗi dân tộc, như Ngạc cầm (Magyun) của Miến Điện; tang, linh, mõ, khánh, bạt … của Tây Tạng, Trung Quốc, Việt Nam.

Tóm lại, Phật giáo có một nền âm nhạc lâu đời, lại có đặc điểm là rất thuần túy, dù bị biến thể qua sắc thái của mỗi dân tộc, nhưng âm nhạc Phật giáo chính là lễ giáo, nhằm dắt dẫn con người hướng thiện, chứ không kích động hoặc ru ngủ người đời vào cảnh túy sinh mộng tử.

ĐIÊU KHẮC

Ở Ấn Độ cổ đại, việc điêu khắc, đắp vẽ tượng Phật bị xem là việc xúc phạm thần thánh, nên chỉ vẽ các hình ảnh tượng trưng như pháp luân, cội Bồ-đề, dấu chân Phật. Về sau, Đại thừa giáo phát triển, kinh điển mới nói nhiều đến nhân duyên công đức của việc tạo tượng.

Việc đắp tạo và điêu khắc tượng Phật đến thế kỷ I mới bắt đầu thịnh hành. Đại tháp Amaravati được xây dựng vào thế kỷ IV – V, trên lan can có Phật truyện đồ với những dụng cụ bằng vàng. Di phẩm nổi tiếng nhất về nghệ thuật điêu khắc là tượng khắc trong động đá Ajantà ở Panjab, được khen là “Cung nghệ thuật phương Đông”. Bên trong có nhiều bích họa, còn bên ngoài có nhiều điêu khắc, các nhân vật đều rất trang nghiêm sinh động, đậm hơi thở tôn giáo. Phía Bắc Ấn Độ thì có phong cách nghệ thuật Kiền-đà-la. Di tích Bamian ở Afghanistan có tượng Đại Phật trên vách núi nổi tiếng thế giới cao đến 52m. Ngoài ra còn có động Angkor ở Campuchia, Bà-la-phù-đồ (Boro-budur) ở Java … đều là nghệ thuật điêu khắc đá tinh vi. Ở Trung Quốc thời kỳ đầu, nghệ thuật điêu khắc chịu ảnh hưởng Kiền-đà-la và Ấn Độ, đến đời Đường, Tống thì có phong cách riêng. Nổi tiếng có cách đắp tượng truyền thần của Dương Huệ đời Đường, các ông Đái Quỳ, Lý Nhã, Trương Tụ đời Tống.

Nói chung, Phật tượng có nhiều loại, được đúc tạo bằng nhiều chất liệu như vàng, bạc, gỗ, đá, xi măng, thạch cao … Kiểu dáng cũng rất đa dạng, nổi tiếng ở Ấn Độ là các vùng Kiền-đà-la, Mạt-thố-la. Khi Phật giáo truyền đến các nước Trung Quốc, Nhật Bản, nghệ thuật điêu khắc tượng Phật phát triển cực thịnh. Phật tượng phần nhiều được đúc bằng kim loại để thờ trong chùa viện, có khi điêu khắc trong các hang động, tạo tượng to lớn giữa cảnh quan thiên nhiên để mọi người chiêm bái, hoặc khắc chạm cả sườn núi, vách núi làm Đại Phật.

Về hình thức, tùy theo quan niệm thẩm mỹ và tâm hồn của dân tộc qua các triều đại mà tượng Phật có khác nhau. Lịch sử tạo tượng ở Trung Quốc biểu hiện rõ đặc điểm này, như tượng thời 16 nước Ngũ Hồ (khoảng thế kỷ III-IV) thì kích thước nhỏ, phong cách thuần phác, cổ điển và hào phóng, giống với nghệ thuật tạo tượng Kiền-đà-la và Mạt-thố-la, biểu hiện nhận thức thẩm mỹ của dân du mục phương Bắc. Tượng Phật thời kỳ khắc tạc ở động đá Vân Cương (460 – 493) thì đường nét đơn giản, hai má đầy, mắt dài và sắc, sống mũi ngay thẳng, môi dày, tai lớn, vai rộng, cổ thô, biểu hiện tình cảm và tướng mạo của bậc đại trượng phu trong quan niệm của người Trung Quốc. Đến thời kỳ tạo tượng ở Long Môn (494 – 550 ) thì tượng Phật lại nhỏ nhắn, khuôn mặt dài, thân hình yểu điệu, cao và ốm … Nói chung, càng về sau tượng Phật càng được nhân cách hóa, là do ảnh hưởng cung đình Trung Quốc mà các thời đại Tùy, Đường, Tống, tượng Phật được khắc tạo rất đẹp, đầy đặn và sinh động, y quan lộng lẫy, nét mặt hiền từ.

Ở Việt Nam, nghệ thuật tạo tượng cũng phát triển rất sớm. Từ khi hình thành trung tâm Phật giáo Luy Lâu, các tượng Phật đã được tôn tạo một cách tỉ mỉ, nổi tiếng nhất ở Việt Nam là tượng gỗ, chạm trổ công phu, như tượng Man Nương, Kim Đồng Ngọc Nữ ở chùa Dâu (chùa Pháp Vân), chùa Keo (chùa Pháp Vũ) ở Hà Bắc, các tượng La-hán, tượng Tuyết Sơn ở chùa Mía (chùa Sùng Nghiêm), chùa Tây Phương ở Hà Tây. Các tượng Phật ở các chùa Dư Hàng, chùa Phổ Chiếu ở Hải Phòng sau này cũng ảnh hưởng rất lớn hình thái tượng ở Hà Tây, vừa sinh động mà lại vừa hiền từ, biểu hiện rõ nét suy tư và tình cảm của tâm hồn người Việt. Các ngôi chùa cổ ở miền Nam Việt Nam cũng còn bảo lưu rất nhiều tượng Phật bằng gỗ quý, nhưng tượng Phật ở vùng này lại ảnh hưởng Phật giáo hệ Nam truyền từ Cao Miên truyền sang, tượng Phật đen đúa, khắc khổ hơn.

Ngày nay, nghệ thuật điêu khắc, đắp vẽ tượng Phật đã phát triển đến mức hoàn mỹ. Nghệ thuật truyền thống kết hợp với kỹ thuật và thẩm mỹ Tây phương, như kỷ hà học, lập thể … làm cho nghệ thuật điêu khắc, phù điêu, đắp tạo tượng Phật ngày càng tinh xảo và hiện đại. Nhưng giá trị cổ điển vẫn là giá trị văn hóa, giúp chúng ta hiểu rõ được nhận thức và tâm hồn của mỗi dân tộc qua nhiều thời đại khác nhau.

KIẾN TRÚC

Trong các loại hình nghệ thuật Phật giáo, nghệ thuật kiến trúc là phong phú nhất, chúng bao gồm rất nhiều hình thức, và mỗi hình thức cũng có nhiều cách thể hiện khác nhau.

Khi Đức Phật còn tại thế, tương truyền đã có tinh xá Kỳ Viên thiết trí đầy đủ bản điện, liêu xá, nhà kho, nhà khách, nhà bếp, nhà kinh hành, nhà tắm, tiền đường, ao sen, nhà dưỡng bệnh. Nhưng những kiến trúc đương thời còn lại về sau chủ yếu có Tháp (Stùpa), Tháp viện (Caitya-grïha), Tăng viện (Vihàra), Tháp nhọn (SÙikhara). Thông thường các hình thức này cấu thành một ngôi già lam, vật liệu chủ yếu là gạch, đá.

Các hình thái kiến trúc Phật giáo nói chung có các loại đặc trưng như Tháp, động đá, Tăng viện, ngọc viên, cửa, thạch trụ, tràng, mạn-đồ-la. Chúng ta tuần tự khảo sát các hình thức này.

1. Tháp : Tháp là nơi thờ xá-lợi Phật nên có ý nghĩa tôn giáo rất lớn. Tháp có nhiều kiểu dáng : Hình tròn tự nhiên, kiểu bát úp hình bán cầu (bắt đầu vào thời vua A-dục), hình vuông. Kiểu bát úp là phổ biến nhất, như đại tháp ở Sanchi, ở chính giữa cất giữ bình đựng xá-lợi, bốn phía có lan can, cửa tháp mở. Đặc điểm của loại tháp này là đường kính của mặt bằng lớn hơn chiều cao của tháp, về sau dần dần tăng cao. Khi truyền sang Trung Quốc, tháp thường có 3 tầng, 5 tầng hay nhiều tầng, được làm bằng gỗ, bằng đá.

2. Động đá : Động đá được kiến tạo xưa nhất là động Bhaja, động Komdane ở Ấn Độ. Ở Trung Quốc có động Vân Cương ở Đại Đồng là kỳ vĩ nhất, được tạo từ thời Bắc Ngụy, thời Tùy. Ngoài ra còn có các động Long Môn ở Lạc Dương tỉnh Hà Nam, các động ở núi Thê Hà, Nam Kinh, núi Thiên Long ở Thái Nguyên, Sơn Tây … Bên trong động đá bảo tồn rất nhiều tôn tượng điêu khắc và hội họa.

3. Tăng viện : Tăng viện (Vihàra) thường có 4 hình thức : Tăng viện đơn độc, tăng viện một tầng, nhiều tầng và bình địa. Trong động đá cũng có các tăng viện được bảo tồn, tương đối thường thấy có tăng viện hình vuông do ba mặt hợp thành, không gian rộng rãi rất giống với tăng phường ba mặt của Trung Quốc, Nhật Bản. Tăng phường bốn mặt phối hợp với Trung đình ngay ngắn bao quanh. Hình chế này là từ Kiền-đà-la dần dần phổ cập đến Trung Ấn Độ. Tăng viện ở Ấn Độ lúc đầu được làm bằng gỗ, sau được thay thế bằng đá. Trong Tăng viện còn có các kiến trúc cần thiết cho sinh hoạt đại chúng như Từ đường, Giảng đường. Ở Trung Quốc phần nhiều lấy 7 ngôi đường tháp làm 1 đơn vị, gọi là Thất đường già lam; Nhật Bản về sau cũng theo hình chế này. Về kiểu dáng, tên gọi cũng như công dụng của mỗi điện đường không theo một quy tắc nhất định, nói chung cực kỳ phong phú và đẹp đẽ.

4. Ngọc viên : Ngọc viên là bức tường đá bao bọc chung quanh các kiến trúc già lam, tháp, tăng phòng. Trên ngọc viên thường có phù điêu tạc hình sư tử, voi, trâu, ngựa và pháp luân, cội Bồ-đề, Bản sanh đàm. Nhật Bản rất thịnh hành kiến trúc ngọc viên này. Một số chùa viện ở cố đô Huế, Việt Nam thường có kiểu thức này.

5. Thạch trụ : Trụ đá được hình thành từ thời vua A-dục ở Ấn Độ. Vua A-dục (Asoka) có khắc chiếu thư sắc dựng trụ đá trong khắp quốc gia. Đầu trụ hình cái chuông, phía trên có tượng voi, sư tử, luân bảo v.v…

6. Tràng : Tràng (Dhvaja) có nghĩa là cờ hoặc tiêu chí. Ở Ấn Độ, kiểu dáng tràng có ba loại khác nhau :

Hình dáng giống như lá cờ hiện nay.

Hai bên lọng tháp đều có dựng một cây gậy tre nghiêng.

Hai bên trước tháp đều có một tảng đá (như bức bình phong ở Trung Quốc).

7. Mạn-đồ-la : Mạn-đồ-la là một cái đàn hình tròn, hình vuông, hình hoa sen hay tam giác, thường được làm bằng vàng, bạc … dùng để phối trí hình tượng, chủng tử, ấn, chân ngôn của chư tôn trong Mật giáo.

Nói chung, kiến trúc Phật giáo của các nước thường tùy theo nhân văn và địa lý ở mỗi vùng mà có điểm đặc sắc riêng. Các kiến trúc ở Tích Lan phần lớn giống ở Ấn Độ; còn Miến Điện, Thái Lan, Campuchia thì có xen tạp kiến trúc bằng gỗ. Bà-la phù đồ (Boro – Budur) ở Java (Indonesia) là một kiến trúc bằng đá đại quy mô biểu hiện cho Mạn-đồ-la 9 tầng của Mật giáo. Các đại tự viện ở Tây Tạng thì phần nhiều được xây cất trên những gò đất nghiêng dưới chân núi, phối hợp với nhiều loại kiến trúc liên tiếp tại một chỗ, tạo thành một cảnh quan đường phố như phong cách châu Âu. Kiến trúc Phật giáo Trung Quốc phần nhiều mô phỏng theo hoàng cung, lấy sự đối xứng để phối hợp tả hữu, sơn môn và điện Thiên vương, điện Đại hùng, Pháp đường, Phương trượng đều xếp thẳng hàng. Hai bên trái và phải theo thứ lớp thiết trí lầu chuông trống, điện già lam và điện Tổ sư, khách đường và Vân thủy đường …

Kiến trúc của Phật giáo Trung Quốc có thể nói đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật nhờ sự bảo trợ của triều đình. Các nước Phật giáo theo hệ Bắc truyền phần nhiều ảnh hưởng phong cách này, nhưng màu sắc và vật liệu thì tùy không gian và thời gian mà có thay đổi. Nhật Bản thì nhẹ nhàng đơn giản, Việt Nam thì ấp ủ hài hòa. Nói chung, kiến trúc Phật giáo là nét son trong văn hóa nghệ thuật phương Đông.

CÔNG MỸ NGHỆ

Phật giáo cũng có các công nghệ phẩm khá phong phú. Các tác phẩm xưa nhất là bình đựng xá-lợi được làm bằng kim loại vàng, bạc, đồng hoặc bằng ngọc, gỗ, đá v.v… Thông thường các loại bình này được cất giữ trong tháp Phật. Tác phẩm sớm nhất hiện còn là tác phẩm có từ thế kỷ VII trước Tây lịch.

Các loại khí cụ mà Phật giáo thường dùng gọi chung là Phật cụ hoặc đạo cụ, có rất nhiều hình thức chủng loại. Ở đây chia làm 7 loại tổng quát :

1. Vật dùng để trang nghiêm tôn tượng : Như lọng, phướn, tràng hoa, chuỗi anh lạc …

2. Vật để cúng dường : Như lò hương, chân đèn, bình hoa, giỏ hoa, bàn …

3. Nhạc khí : Hồng chung, trống, khánh, chiêng đồng, linh, mõ.

4. Dung khí : Như rương đựng kinh, rương đựng ca-sa.

5. Pháp phục và vật cầm của chư tăng : Như ca-sa, tích trượng, xâu chuỗi, cây gãi lưng.

6. Pháp cụ của Mật giáo : Như chày kim cang, linh kim cang, chày yết-ma, v.v…

7. Các  tác phẩm có liên quan đến kiến trúc, điêu khắc : Như trù tử, khám thờ Phật, Phật đàn, lồng đèn v.v…

Nói chung, các loại công mỹ nghệ xuất hiện rất nhiều. Nhờ sinh hoạt Phật giáo được kết hợp với dân gian cho nên các loại pháp cụ, cúng cụ cũng như những khí cụ bình thường cũng được chế tác với một số lượng lớn, tạo thành một mạch ngầm của nền mỹ thuật Phật giáo mà bình thường ta ít để ý, song chúng có ảnh hưởng sâu đậm, tác động trực tiếp đến quan niệm tín ngưỡng dân gian. Tuy các tác phẩm sau này có trộn lẫn các nền nghệ thuật khác, nhưng ảnh hưởng của Phật giáo vẫn có thể phân biệt để biết một cách dễ dàng.

KẾT LUẬN

Phật giáo là một tôn giáo có ảnh hưởng sâu đậm trong lòng các dân tộc Á Đông. Tác dụng của tôn giáo, chính yếu là đời sống tinh thần. Văn hóa biểu hiện được đời sống ấy. Do vậy, chỉ cần nhìn vào văn hóa, người khác có thể đánh giá được nét đẹp của đời sống các dân tộc Á Đông. Nghệ thuật là sự thể hiện cụ thể nhất giá trị văn hóa, cho nên việc tìm hiểu, bảo trì và phát huy nghệ thuật Phật giáo đối với hàng Phật tử trí thức là vô cùng quan trọng.

Nhìn vào các loại hình nghệ thuật Phật giáo chúng ta có quyền tự hào về sự đa dạng và phong phú của nó. Bài viết này chỉ khái quát các loại hình, nhưng chỉ mới gọi tên chúng như một sự liệt kê. Giá trị mỹ học của từng tác phẩm liên quan với tư tưởng, triết lý của chúng mới là đề tài lớn. Nếu tìm hiểu được ngọn nguồn của nền nghệ thuật ấy, chúng sẽ cho ta một sự hiểu biết đúng đắn và chân xác về tác dụng của chúng đối với tâm hồn như thế nào. Đôi lúc do không hiểu, các tác phẩm nghệ thuật đã bị ngắm nhìn dưới cái nhìn thần quyền, huyền bí, hay bị xem thường, lãng quên trong sự vô tình hay thiếu tri thức của con người. Người xưa hết sức kỹ lưỡng khi chế tác, thiết kế các tác phẩm, nhờ đó chúng có mặt lâu dài với thời gian và vẫn được tôn trọng, bảo tồn.

Ngày nay có một số chùa viện do không nắm được hết ý nghĩa quan trọng của các loại hình nghệ thuật, cho nên đã không tuân thủ theo những quy tắc chung hay mô phỏng theo những dạng thức của các nền văn hóa khác, vô tình chúng ta không những đánh mất chính mình, đánh mất cái kho tàng vô giá của người xưa để lại, mà còn hạ thấp chính mình. Khi xây dựng một ngôi chùa, tạc một pho tượng, kiến trúc một tòa tháp, chế tác một cúng cụ …, tất cả cần phải tìm và hiểu được giá trị độc đáo của chúng, ngỏ hầu bảo tồn và phát huy nền nghệ thuật trác vời của Phật giáo.

(Tổng hợp các tư liệu từ Phật Quang Đại Từ Điển).

Mạnh Đông năm Canh Thìn.

NT.

Trích: Tập san Suối Nguồn số 08