Người “tạc nụ cười Phật”nói về “pháp tu tạo tượng”

Khi làm tượng, tôi phải cắt đứt hết mọi chướng duyên, chỉ tập trung vào công việc. Tất cả mọi thứ phải để nó trôi đi nhẹ nhàng như gió thoảng. Tâm mình phải tịnh, không vọng động gì cả. Vọng tâm thì chỉ có chết thôi! Mình làm tượng mà mình bê bối thì người ta mất niềm tin. Tự mình không xứng đáng là mình đang phỉ báng Phật.Nhắc đến điêu khắc gia Thụy Lam, người ta nghĩ ngay đến những pho tượng Phật mang tầm kỷ lục, nổi tiếng nhất là pho tượng Bồ tát Quán Thế Âm tại Bãi Bụt – Đà Nẵng (cao 70m), tượng Phật Di Lặc tại Núi Cấm – An Giang (cao 33,6m), tượng Phật Thích Ca Niêm hoa vi tiếu tại thiền viện Vạn Hạnh – Đà Lạt (cao 24m), tượng Phật A Di Đà tại chùa Vĩnh Tràng – Tiền Giang (cao 23m), cùng hàng chục pho tượng Phật, Bồ tát đã và đang thực hiện khác tại các tỉnh Khánh Hòa, Bình Phước, Vĩnh Long, Bến Tre, Phú Quốc – Kiên Giang, Bạc Liêu… Ông cũng là tác giả của ngôi tháp Lửa từ bi tại Tổ đình Quán Thế Âm – Phú Nhuận, TP.HCM và là đồng tác giả của pho tượng Gà chín cựa tại làng K’long – thôn Darahoa, Đức Trọng, Lâm Đồng.

Nghiễm nhiên, điêu khắc gia Thụy Lam, tên thật là Phạm Dân Chủ, trở thành người nổi tiếng. Rất nhiều bài báo đã viết về ông, “một ông già ốm nhom, ít nói”, và gọi ông là “người tạc nên những nụ cười của Phật” với không ít những câu chuyện bí ẩn về tâm linh. Dù vậy, ở tuổi 65, ông vẫn cho mình là “kẻ thích lang thang” hơn là một nghệ nhân, thậm chỉ có người còn gọi ông là một “gã điên”. “Tôi nói chuyện với mấy thầy thì được, chứ nói chuyện với mấy người thế gian, họ nói tôi điên”, ông tâm sự.

Người bán ve chai trở thành nhà điêu khắc

Thụy Lam sinh năm 1945, quê ở xã Long Sơn, Tân Châu, An Giang. Ông theo cha mẹ sang Campuchia sinh sống và được gửi vào học trường dòng Thiên Chúa giáo. “Cha mẹ tôi cho rằng học ở đó nghiêm túc và khắt khe hơn”, ông nói. Năm 1970, do tình hình chính trị bất ổn, gia đình ông trở về Việt Nam sinh sống. Và, khởi nghiệp từ một người phụ việc, ông đã trở thành người thầy với rất nhiều đệ tử – những đệ tử gọi ông một cách thân thương là “Sư phụ”.

–  Được biết, thân sinh ông muốn ông học để trở thành thầy giáo, nhưng do nhân duyên nào mà ông lại là một nghệ nhân tạo tượng?

– Thuở nhỏ tôi đã có năng khiếu hội họa. Tôi thích lang thang vẽ vời và nặn tượng hơn là dạy học. Tôi đứng lớp được một thời gian rồi bỏ nghề, theo phụ việc cho một số giáo sư ở Trường Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định. Được họ hướng dẫn, tôi đi vẽ cho các phòng trà, nhà hát. Tôi đam mê nghề này nên vừa làm vừa học. Một lần, khi phụ việc cho các giáo sư ở một khách sạn nọ, có một pho tượng Mỹ nhân ngư ở dưới nước bị hư, các giáo sư vì xích mích nên không làm mà bảo tôi sửa. Trước đó, tôi chưa đụng đến điêu khắc bao giờ, nhưng nhờ vào những kiến thức và kinh nghiệm học lỏm được, tôi đã hoàn thành bức tượng một cách tốt đẹp.

– Nhưng, từ một người phụ việc đến một điêu khắc gia, mà lại là điêu khắc gia Phật giáo, thưa ông, phải chăng là một chặng đường khá xa?

– Từ một người đi bán ve chai thì đúng hơn! Vì sau năm 1975, nhờ gia đình có được một số vốn, tôi đi bán ve chai, một nghề “thịnh hành” thời bấy giờ. Lúc đó tôi gặp nhà thơ Trụ Vũ (cũng đi bán ve chai), biết tôi có năng khiếu hội họa nên bác đã giới thiệu tôi xuống “sở rác” ở Pháp viện Minh Đăng Quang (quận 2 bây giờ) để làm việc. Ở đó, tôi trang trí mái đao và vẽ cây bồ đề.

Cảm nhận cuộc sống của quý sư ở Pháp viện thanh đạm và nhẹ nhàng, không bon chen lừa lọc như cuộc sống bên ngoài, tôi rất thích và thường ở chùa. Các sư thương mến nên hay cho tôi đồ ăn thức uống, nhất là đưa sách Phật cho tôi đọc – chủ yếu là các loại sách Phật giáo do người phương Tây viết. Thích ở chùa, thích vẽ tranh Phật, vẽ cây bồ đề, thích đàm đạo với các sư, nên những yếu tố cũng như triết lý sống Phật giáo tự nhiên huân tập vào trong tôi.

Một thời gian sau, tôi về chỗ ông Bảy Chánh, một nhà điêu khắc nổi tiếng tại khu tạc tượng Phú Lâm, để học nghề. Thấy tôi có năng khiếu, chăm chỉ học tập cộng với cái tâm thuần phác, nên ông nhiệt tình chỉ dạy. Ông nói: “hướng dẫn hết cho mày thì sau này sẽ có lợi cho Phật giáo!”.

Ban đầu, từ vẽ cây bồ đề đến vẽ và làm đủ loại, tới nay tôi chỉ duy nhất làm tượng Phật mà thôi.

Từ “công án” đến “pháp tu tạo tượng”

Dường như đam mê vẫn chưa đủ để một người có năng khiếu trở thành tác giả của rất nhiều pho đại Phật – mà Thụy Lam sinh ra như thể chỉ để làm tượng Phật. Và dù chưa bao giờ tác ý, ông vẫn là người “chế tác” nên rất nhiều kỷ lục. Nhiều pho đại Phật khởi đầu từ bàn tay người khác, song cuối cùng “tác giả” lại thuộc về ông, như pho tượng Phật A Di Đà chùa Vĩnh Tràng, pho tượng Quán Thế Âm tại bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng. Thế nhưng, có một điều rất đặc biệt là khi hỏi về những công trình của mình, ông lại nhớ rất ít. Thậm chí khi công trình Đại Phật Di Lặc tại núi Cấm được xét và “trao nhầm” kỷ lục cho “tác giả” khác, ông cũng không mấy quan tâm. Ông nói: “Cuộc đời họ thèm kỷ lục, nhưng tôi chỉ thích cảnh chùa; ở chùa tôi thấy mọi thứ đều huyễn ảo – nhạn quá trường không, ảnh trầm hàn thủy… Việc tôi làm là tôi làm thôi chứ tôi không nghĩ ngợi gì xa vời. Mình làm cái nào ra cái nấy, Phật đã chỉ dạy rõ ràng rồi”. Thậm chí, khi có người bức xúc về việc người ta bán hàng quán ngổn ngang, kể cả việc xây cổng phá vỡ cảnh quan tại chân Phật Di Lặc ở núi Cấm, ông chỉ mỉm cười: “Tôi chỉ là người làm tượng Phật thôi, còn những cái kia là chuyện chúng sinh!”.

– Thưa ông, phải chăng sự huân tập nếp sống văn hóa Phật giáo đã giúp ông có được một đời sống thanh thản cũng như những công trình vĩ đại như ngày hôm nay?

– Đúng là tôi đã được học rất nhiều từ các sư, các thầy và từ các điển tích Phật giáo. Nhưng thực ra bản thân tôi cũng gặp phải một “công án” khó – một công án dành cho riêng tôi. Đó là lần nọ, một vị sư thấy tôi vẽ và hỏi: “Anh vẽ để làm gì?”. Lúc đó tôi không đáp được. Câu hỏi như một công án, và đi theo tôi suốt. Lần khác, chứng kiến việc Giáo sư Trương Định Ý (người tạc pho Đại Phật Niết bàn tại núi Tà Cú, Bình Thuận) cạo đầu tu hành, tôi đã vô cùng thắc mắc. Thầy Trương Định Ý là người chỉ dạy cho tôi nhiều kinh nghiệm điêu khắc. Gặp thầy, tôi hỏi: “Sư phụ còn gì để chỉ dạy không?”; ổng nói: “Mô Phật đi!”. Đúng là “phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”, vậy tôi vẽ để làm gì?

– Vâng, đó quả là một công án, nhưng còn tạc tượng… ông tạc để làm gì?

– Tôi tạc là tôi tạc thôi. Mọi người đều làm việc, và tôi cũng làm việc. Người ta sao mình vậy!

-Nhưng công việc của ông có phần đặc biệt?

– Đúng là tạc tượng thì phải để hết cái tâm của mình vào trong đó. Mà tôi làm tượng là làm cho chúng sinh lễ bái chứ có phải làm cho tôi đâu! Cho nên khi làm tượng, tôi phải cắt đứt hết mọi chướng duyên, chỉ tập trung vào công việc. Tất cả mọi thứ phải để nó trôi đi nhẹ nhàng như gió thoảng. Tâm mình phải tịnh, không vọng động gì cả. Vọng tâm thì chỉ có chết thôi! Mình làm tượng mà mình bê bối thì người ta mất niềm tin. Tự mình không xứng đáng là mình đang phỉ báng Phật. Làm tượng Phật cũng như tu thiền. Nên người xây chùa thì có pháp môn xây chùa, người làm tượng thì có pháp môn tạo tượng!

– Phật dạy có tám vạn bốn ngàn pháp môn tu, vậy có phải “pháp môn tạo tượng” là pháp môn tu của riêng ông?

– Thực ra tôi cũng tà ma ngoại đạo lắm chứ chưa tu hành gì đâu. Nhưng khi làm tượng, tôi phải giữ thân tâm cho thanh tịnh. Tâm thanh tịnh thì mới làm tốt được. Vì khi làm tượng Phật lớn, mình không thể tuân theo tiêu chuẩn sách vở, mà phải làm bằng kinh nghiệm và trực giác. Ví dụ, chỉ tính cái răng của Phật Di Lặc ở Núi Cấm thôi cũng đã to 4 tấc rồi (mà cái mình tôi thì chỉ hơn 2 tấc!); còn nụ cười của Bồ tát Quan Âm ở Bãi Bụt rộng đến 1,4m, con mắt rộng 1,2m! Mình phải quán không gian theo nhiều chiều chứ không chỉ có ba chiều. Tượng ở Bãi Bụt nguyên thủy có diện không đẹp, nhưng khi sửa diện thì lại trật tâm… Nếu tâm không tịnh và không nhờ Phật lực gia hộ thì khó lòng làm nổi. Tôi chỉ tập “làm Phật” chút đó thôi!

– Mỗi khi làm tượng Phật, ông hầu như luôn ở gần tượng và thường ẩn mình trong một cái thất tạm bợ. Ông thường “nhập thất” như thế bao lâu, và điều đó giúp ích gì cho việc tạo tượng?

– Mọi người nói đùa về cái thất của tôi là “tuyệt tình cốc”. Trước khi phác thảo về Đức Phật, tôi phải có và ấp ủ hình ảnh Ngài trong lòng rất lâu. Tôi thường “nhập thất” vài ngày, vài tuần, có khi cả tháng. Làm tượng Phật thì phải ra Phật. Đức Phật, dù thế nào đi nữa, cũng phải có đủ Bi – Trí – Dũng. Cho nên phải thường xuyên quán tưởng về ngài. Làm Chúa thì phải suy niệm về Chúa, làm Phật thì tất nhiên phải quán tưởng về Phật. Quán tưởng ngày này qua ngày khác, quán từng chi tiết một, cho đến khi Đức Phật hiện rõ ràng ra trước mắt mình. Và đó là vị Phật của mình, vị Phật của dân tộc mình. Thấy rõ Phật rồi tôi mới phác thảo và làm tượng.

– Dường như nghệ nhân nào cũng ấp ủ một tác phẩm để đời. Còn ông, ông đã ấp ủ tác phẩm nào để lại cho đời chưa?

– Tôi không có gì cả thì lấy gì mà để lại!

-Họa sĩ Phượng Hồng cho rằng ông là người làm tượng vĩ đại nhất Việt Nam. Một vị Hòa thượng cũng bảo rằng, sau khi thu thập và so sánh hầu hết các pho tượng Phật Di Lặc trên khắp đất nước, Hòa thượng thấy pho tượng Phật Di Lặc tại Núi Cấm – An Giang là đẹp nhất. Là người “chế tác nụ cười Phật”, ông có thể chia sẻ những kinh nghiệm quý báu của mình cho những ai muốn trở thành nhà tạo tượng?

– Quả thực, tôi không bao giờ giấu nghề. Tôi đã trao hết tất cả những gì mình có cho học trò. Nhưng Đức Phật từng nói, có những cái không cho được và cũng không nhận được. Nếu chúng ta chỉ căn cứ vào kinh điển diễn tả về 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của Phật để làm tượng thì không ổn. Chúng ta phải biết quán tưởng và tự thể nhập vào Đức Phật của mình. Phải có một hình tượng Phật gần gũi với dân tộc Việt Nam, từ màu da, nụ cười cho đến mí mắt. Nên mình vừa phải dựa vào kinh điển, vừa phải quán tưởng. Tổ ong cho dù rất đẹp thì muôn đời vẫn chỉ là tổ ong, còn tác phẩm của con người thì phải có tính sáng tạo, phải sống và phải mới. Cái đó cũng giống như sự thực chứng trong việc tu tập vậy, không thể cho và nhận được!

Tinh hoa hội họa nằm ở trong kinh Phật. Như có lần, Đức Phật hỏi một vị Tỳ kheo rằng: Thế nào là một bức tranh tuyệt tác? Vị Tỳ kheo trả lời: Một bức tranh tuyệt tác là một bức tranh được vẽ bằng tâm thức. Đức Phật nói thêm: Nhưng cái tâm còn tuyệt tác hơn bức tranh đó nữa!

-Xin chân thành cảm ơn ông. Nhân dịp năm mới, kính chúc ông luôn an lạc, luôn sáng tạo, luôn sống và luôn mới!

Quảng Kiến thực hiện ( Nguyệt San Xuân Tân Mão-2011- số 178)