Con Đường đến Chánh Quả Giải Thoát

Bà Mae Chee Kaew-một phụ nữ thôn quê người Thái, đã phải rất vất vả trải qua nhiều chướng duyên trên con đường tầm đạo từ lúc từ bỏ gia đình cho đến ngày thành tựu và được xem như một trong những vị thánh A-la-hán của thời đại tân tiến này. Ngài Bhikkhu Silaratano viết về Ni Sư Mae Chee Kaew trong quyển “Con đường đến Chánh Quả Giải Thoát” rằng: Trước khi Ni Sư viên tịch năm 1991 lúc đã 90 tuổi đời, Ni Sư được thắng duyên học hỏi thiền định với rất nhiều bậc cao tăng của thời đại. Dưới đây là một đoạn trích ngắn về hành trình tâm linh của Ni Sư dựa theo tiểu sử trong quyển sách của Ngài Silaratano.

Thỉnh thoảng cũng có những vị tăng Phật giáo du mục qua thôn làng nhỏ tên la Baan Huay Sai của cô gái miền quê Mae Chee Kaew. Họ tìm kiếm một nơi yên tỉnh để tá túc một vài ngày trong cái nóng nực của mùa nắng khô. Chung quanh làng là miền hoang dã rừng núi đầy thú dữ và những thành phần tác quái trong xã hội tự do phóng túng. Người dân làng rất sợ phải bén mãng đến nhừng nơi này, và họ càng lo sợ hơn cho những vị tu hành tìm đến chốn hoang vắng này để tu tập.

Vào năm 1914 có một vị cao tăng tên là Ajaan Sao Kantasilo, rất nổi tiếng với lối sống ẩn nấu trong rừng sâu núi thẩm. Ngài đã tình cờ đi qua làng Baan Huay Sai từ phía dòng sông Hồng Hà bên Lào, đã lưu lại nơi đây một thời gian và biến đổi ngôi làng nhỏ bé này thành một chốn tu tập tâm linh tuyệt hảo. Ngài cùng một số đồ đệ vượt rừng sâu hiểm trở suốt thời gian mùa hè nóng nực cực đới để cuối cùng dừng chân tại Baan Huay Sai vừa đúng lúc mùa mưa lũ lại về. Theo truyền thống Phật giáo từ ngàn đời, người xuất gia phải dừng chân trụ lại một chỗ nào đó suốt trong ba tháng mùa mưa không di chuyển nhiều.

Ngài Ajaan Sao đến Baan Huay Sai một buổi sáng tinh mơ, mờ sương và ướt đẫm mưa đêm. Ngài và hàng đồ đệ của ngài trong những chiếc áo cà sa màu băng hoại, đi chân đất, với đãi sách và bình bát nặng trĩu trên vai. Họ khất thực lần đâu tiên trong làng và nhận vật thực từ những người dân nghèo nàn mộc mạc chất phát. Vật thực đơn sơ như đời sống khó nghèo của họ: cơm trắng, cá muối, chuối, trái cây, và những nụ cười hiền lành thân thiện. Họ nghèo nhưng luôn tỏ lòng tôn kính cúng dường chư tăng, để gọi là hưởng chút phước lành cho cuộc sống. Gia đình của Mae Chee Kaew thế, cũng đã sẳn sàng từ sáng để cúng dường cho quý ngài ngoài ngõ khi phái đoàn tiến tới.

Những người đàn ông trong làng rất muốn tìm hiểu về quý chư tăng này từ một nơi xa xôi đến đây nên họ đã theo chân các ngài về khu vực cấm trại tạm thời tuốt sâu vào dưới chân núi. Cho dù tiếng tăm của Ngài Ajaan Sao đã lừng lẫy khắp vùng nhưng người dân làng này chưa hề có duyên gặp ngài nên khi biết ra tông môn và danh tiếng của người khách quý, bố của Mae Chee Kaew và người dân làng rất muốn giữ chân các ngài lại nơi đây ít nhất là cho qua mùa mưa. Ông đưa quý thầy đi khắp hang cùng hốc hẽm, đèo cao sông rộng, đồng bằng cũng như núi thẩm để tìm một nơi tạm dừng chân tu tập ổn định trong mùa mưa. Ông rất hoan hỉ khi cuối cùng Ngài Ajaan Sao đã chọn một cồn cát cao gần hang động Banklang, từ chỗ đó về làng chỉ vỏn vẹn một tiếng đồng hồ đi bộ.

Sau khi yên ổn nơi cơ sở mới, Ngài Ajaan Sao bắt đầu giảng pháp cho dân làng. Ngài hướng dẫn người ta quy y và đến với Tam Bảo Phật Pháp Tăng thay vì cúng tế thần linh như truyền thống họ đã quen thuộc nhiều đời. Ngài khai thị cho họ tăng trưởng trí tuệ, giữ gìn ngũ giới của người tại gia, không sát sanh, không trộm cướp, không nói dối, không tà dâm, và không uống rượu. Để giúp cho họ hiểu hơn và bớt sợ thần linh, ngài chỉ dẫn cách toạ thiền giữ tâm chánh niệm. Trước tiên ngài giảng cho họ nghe về cách thức cung kính Phật bằng bài tụng Tán Dương Phật. Khi cảm thấy tâm họ khá an lành, ngài dạy họ chuyên cần niệm hồng danh Phật.

Và cứ thế ngài khuyến khích và sắp xếp cho người dân làng cứ đến ngày rằm trăng tròn mỗi tháng thì quy tụ về nơi an cư của quý ngài để thiền hành, học giáo lý, nghe giảng, và cúng dường trai tăng. Cô bé Mae Chee Kaew, 13 tuổi, vẫn còn đuợc gọi bằng cái tên Tapai thân mến mà gia đình đặt cho cô, cũng được cùng cha mẹ đi bộ từ làng đến hang động Banklang tham dự ngày lễ mỗi tháng. Nhưng vì là nữ nhi và rất trẻ nên cô chỉ được đứng tuốt phía dưới đằng sau hàng hàng lớp lớp người lớn, để chỉ vừa đủ nghe giọng nói từ tốn của Ngài Ajaan.

Ráng nhón người qua vai của bà mẹ kế của cô, Tapai cố gắng thâu thập những lời chỉ dạy của ngài, và cô say mê nhìn ngắm vị thầy khả ái đức độ đã có một sức mạnh thu hút tâm hồn cô. Cô chưa tập ngồi thiền như ngài giảng dạy và chỉ dẫn, nhưng thâm tâm cô cảm nhận được ngài đã chứng đắc được cái niềm hạnh phúc an bình mà ngài đang nhắc đến. Cô cảm thấy bị lôi cuốn theo sức mạnh tâm từ của ngài.

Cô bé Tapai nhớ rõ cái phút giây mà tâm cô bị sự thu hút này làm chấn động. Ngày đó, ngài Ajaan Sao đang ban những lời khen đến tất cả phụ nữ trong làng đã hết sức chu đáo trong công việc cúng dường bố thí và lo cho chư tăng tất cả những thời trai hằng ngày. Không những việc làm này giúp cho chư tăng tinh tấn tu tập mà nó còn đem lợi lạc phước báu về sau cho những người biết cúng dường thanh tịnh nữa.

Rồi ngài còn giảng thêm, ngoài việc cúng dường bòn phước như thế, nếu các bà các cô có thể buông bỏ bớt việc làm hằng ngày để trở thành bạch y cư sĩ chuyên cần tu tập trong rừng vắng, không những mang phước báu đến cho mình mà còn có thể dành phần phước cho chúng sinh mọi loài nữa. Những lời giảng này đã in đậm vào tâm trí một cô bé như những hạt mầm sau này phát triển thành cội bồ đề vẻ vang của cả một thế hệ.

Ngài Ajaan Sao đã dừng chân gần làng Baan Huay Sai đã ba mùa nước lũ. Khi ngài quyết định rời nơi ấy, Bố của Tapai rất buồn nhưng ông biết Phật pháp đã bén mầm nơi người Phu Tai dân quê chất phát trong làng. Nhưng chẳng bao lâu sau khi ngài Ajaan Sao ra đi, ngôi làng thân thương của ông lại được duyên lành tiếp đón một vị cao tăng uyên thâm tột bực khác là ngài Ajaan Mun Bhuridatto.

Vào năm 1917, lúc mùa mưa hằng năm sắp trở lại, Ngài Ajaan Mun cùng 60 đồ đê cũng vừa đến vùng chân núi bên cạnh làng Baan Huay Sai. Họ bắt đầu cắm chõng dựng lều trong hang động, trên triền núi và những mõm đá cheo leo. Cũng như phái đoàn của ngài Ajaan Sao, dân làng rất hoan hỉ đón chào ngài Ajaan Mun Bhuridatto.

Có những buổi sáng khi đang để thức ăn vào bình bát của Ngài Ajaan Mun, cô bé Tapai mừng rỡ trong lòng khi ngài nói chuyện hỏi thăm cô và khuyến khích cô đến tham vấn với ngài. Nhưng lễ giáo không cho phép và vì cô rất nhút nhát nữa nên chẳng bao giờ cô dám bén mãng đến gần quý ngài, chỉ dám cùng đi với gia đình và người dân làng vào dịp lễ trọng hằng tháng thôi. Còn ngài Ajaan Mun thì lúc nào cũng tỏ thái độ rất mến cô bé có tâm hướng thượng này.

Hình như ngài nhìn thấu được tâm đạo và ước nguyện của cô. Ngài tìm cách khuyến khích cô tọa thiền. Ngài nhắc lại những lời dạy về cách thức ngồi thiền y như ngài Ajaan Sao đã từng giảng dạy: cô bắt đầu thực tập cách niệm hồng danh Phật cho đến rốt ráo nhất niệm, không còn nghĩ tưởng một sự việc nào ngoài câu niệm Phật.

Một ngày nọ, Tapai ngồi xuống tĩnh lặng niệm Phật. Chỉ chừng 15 phút sau, tâm cô đạt tới một niềm hỷ lạc vô biên trong thanh vắng. Cô cảm thấy như hình hài của cô đang nằm cứng đơ như chết trước mặt cô, hình ảnh quá rõ ràng cô tưởng mình thật sự đã chết. Trong thiền định cô thấy ngài Ajaan Mun bước đến bên xác chết của cô một cách trịnh trọng, ngài dùng cái gậy của ngài gõ vào thể xác bất động của cô, mỗi lần lập đi lập lại rằng thân thể con người là vô thường, là không tồn tại mãi mãi, chỉ có cái tâm mới bất diệt, không bao giờ có sinh có tử, cho dù thân xác sẽ ra đi khi họ chết.

Cứ mỗi một gậy gõ lên người cô thì cái thân tứ đại của cô mục nát dần, cho đến cuối thì chỉ còn là một đống xương. Rồi từ đống xương đó, ngài Ajaan Mun lấy ra một vật gì như một hạt cải từ giữa trái tim của cô và để trong lòng bàn tay của ngài. Đêm đó Tapai tọa thiền suốt đến sáng, quán chiếu tấm thân bất tịnh của mình. Cuối cùng khi bình minh ló dạng, cô mới xả thiền.
Ba tháng sau đó hằng ngày cô chuyên cần tọa thiền niệm Phật. Với sự hướng dẫn tích cực của ngài Ajaan Mun, cô nhanh chóng đạt được chánh định. Khi cô thưa với sư phụ về những kinh nghiệm trong lúc thiền định, quý thầy đệ tử cũng xúm lại để nghe những gì cô chia sẽ và học hỏi thêm những lời giáo huấn của ngài Ajaan Mun.

Một ngày nọ, khi những cơn mưa bắt đầu thưa dần – dấu hiệu mùa mưa sắp chấm dứt, Tapai được sư phụ gọi về diện kiến. Ngài nói với cô phái đoàn sắp lên đường rời nơi đây. Ngài hỏi cô có gia đình, hay có người yêu không, cô trả lời không. Ngài muốn cô xuất gia làm bạch y cư sĩ tháp tùng theo phái đoàn chư tăng du mục khắp chốn. Cô giật mình kinh ngạc với ý tưởng của sư phụ. Và rất sung sướng trong lòng. Nhưng cô nghĩ cha mẹ cô sẽ không bao giờ cho phép. Với một nụ cười hiền hòa tứ bi trấn an cô, ngài truyền cô về nhà tham vấn cha mẹ.

Dĩ nhiên cha cô nhất quyết không bằng lòng, ông sợ con gái ông sau này nếu lỡ không tu được nữa, sẽ không bao giờ lấy chồng được. Ông chỉ muốn cô sống đời cư sĩ tại gia, và bằng lòng với cuộc sống bình thường như bao nhiêu người khác.

Khi nghe vậy, ngài Ajaan Mun khuyên cô nên nhẫn nại chờ đợi. Khi duyên đến, ngài nói, cô sẽ có cơ hội tiềp tục sự tu tập giải thoát của cô. Ngài nói sẽ có những vị thầy khác hiện diện giúp đỡ cho cô. Ngaì khuyên nên vâng lời cha mẹ, tạm dừng ý thích riêng tư của mình để trở về đời sống bình thường cho cha mẹ hài lòng. Ngài cảm thấy Tapai rất có tâm đạo muốn học hỏi nhưng ngài nghĩ cô chưa đủ khả năng tự mình tu tập mà không có ai dẫn dắt. Nếu lỡ có chuyện gì xẩy ra trong lúc hành thiền, cô sẽ không có ai để nương tựa khi ngài không còn có mặt nơi đây.

Tapai không hiểu nổi tại sao sư phụ cấm không cho cô thực tập nữa, nhưng cô quyết tâm vâng lời và tin tưởng ngài hết lòng. Cô chấm dứt mọi sự tu tập của mình cho dù trái tim cô rất đau khổ, như muốn bể tan trong lòng ngực.

Sau khi ngài Ajaan Mun và phái đoàn rời thôn làng, Tapai trở thành ít nói và có vẻ như xa lánh mọi người. Niềm vui và những nhộn nhịp trong lòng lúc học thiền đã không còn thể hiện trong cô. Với cá tính nhút nhát sẳn có, cô càng không chủ động được sự niềm nở vui tươi xã giao của mình. Cô chỉ biết đổ hết tâm lực vào công việc làm của cô. Cô giúp gia đình trong công việc đồng áng trồng cây vải bông, gạt hái, và tự dệt thành chỉ. Rồi cô chăm chỉ hằng giờ bên khung dệt để may thành những bộ quần áo vải thô đơn sơ nhưng thoải mái ấm cúng. Cô lại trồng cây chàm để làm thuốc nhuộm vải màu rất đẹp. Ngoài ra cô còn nuôi tầm nhả tơ làm thành những bộ quần áo rất sang trọng.

Năng khiếu và sự chịu đựng cũng như tánh kiên nhẫn cần cù làm việc đã mang lợi lạc lại cho gia đình, và lớn bé gia trẻ trong làng ai cũng kính trọng khâm phục cô. Biết bao nhiêu trai làng dòm ngó. Một cậu trai tên Bunmaa đến xin cầu hôn. Cô chẳng màng gì đến yêu thương hay lập gia đình vì tâm cô chỉ hướng về tu tập thiền định, nhưng cha mẹ đã quyết định, cô cũng chỉ biết vâng lời, vì như ngài Ajaan Mun đã căn dặn trước khi đi là cô phải trở về đời sống thế tục trong thời gian chờ đợi này. Lấy chồng là một phần của cuộc sống thế tục mà thôi.

Một khi đã có chồng, Tapai thành một người vợ đảm đang làm đầy đủ bổn phận của một người vợ, nhưng lúc nào nàng cũng có cảm tưởng như bi gò bó cầm tù trong chính hôn nhân của mình. Những đau khổ của cuộc sống nhạt nhẽo cứ chất chồng qua ngày tháng. Mười bảy tuổi lấy chồng, thấm thoát nàng đã 27. Càng ngày nàng càng cảm thấy mình cần buông bỏ cái đời sống tạm bợ này để đi theo tiếng gọi tâm linh trở thành một nữ tu sĩ Phật giáo. Sự cương quyết tăng dần trong thinh lặng. Một buổi chiều nọ, nàng quỳ gối trước mặt chồng, tỏ bày tâm sự và ý nguyện, nhưng chồng nàng không những không đồng ý mà còn cấm đoán hết mực nữa. Anh trả lời một cách lạnh lùng là không bao giờ muốn nghe những ý nghĩ này của nàng nữa.

Cuộc sống hôn nhân của nàng 10 năm rồi vẫn chưa có con cái gì cả. Gia đình rất băng khoăng lo lắng, nên khi cô em của nàng mang bầu lần nữa, mọi người đồng ý cho Tapai đứa bé sơ sanh mang về làm con riêng, vì cô em này đã có rất nhiều con. Tapai đặt tên đứa con gái cưng là Kaew, nghĩa là “con cưng bé nhỏ”. Khi người ta thấy sự tận tụy của nàng đối với đứa con gái bé bỏng, người ta gọi nàng là Mae Kaew, nghĩa là Mẹ của Kaew.

Nuôi con là cả một niềm vui bất tận cho Mae Kaew, công việc này đã làm cho nàng hết còn cảm giác nhàm chán cuộc sống tẻ nhạt nữa, cho dù tâm nàng vẫn không rời bỏ khát vọng xuất gia ngày xưa. Nàng vẫn khát khao một ngày nào đó sẽ được gia nhập Ni đoàn ở chùa Wat Nong Nong, xuống tóc, và chỉ mặc y trắng ngần tinh khiết, sống đời tịnh khẩu, và tu tập thiền định trở lại. Nhưng giờ với đứa con thơ bé nhỏ cần tất cả tình thương yêu và sự chăm sóc của nàng, nguyện vọng xuất gia có vẻ xa vời vợi ngay lúc này.

Tuy nhiên, nàng vẫn cố gắng thuyết phục chồng cho phép nàng đến thăm viếng tu viện trong một thời gian ngắn, nhưng anh ta cương quyết nhất định không cho. Cuối cùng nhờ sự dàn xếp của một người chú – một trưởng lão rất được mến mộ và khâm phục của gia đinh qua đức tính hiền hòa, ngay thẳng, và lịch duyệt của ông. Ông biết Mae Kaew từ bé và cũng hiểu rõ nguyện vọng lớn lao của nàng. Ông tìm cơ hội nói chuyện riêng với Bunmaa, phân tích và giải thích ý nghĩa đức hạnh của sự tu tập giải thoát, và yêu cầu Bunmaa xử sự một cách công bằng hơn với vợ, vì vợ anh đã không bao giờ chểnh mảng bổn phận của nàng, và sẽ trở về với anh sau thời gian hạn định. Cuối cùng Bunmaa đồng ý cho nàng đi xuất gia 3 tháng mùa mưa mà thôi, không thêm hơn một ngày nào cả.

Mae Kaew rất hoan hỉ – thế là lời tiên đoán của ngài Ajaan Mun đã không xai gần 20 năm về trước. Nàng quyết chí tận dụng tất cả sinh lực trong công việc tu tập ròng rã ba tháng xuất gia của mình. Sau bao nhiêu năm không thỏa được ước vọng, chẳng lẽ bây giờ có cơ hội mà lại mang thất bại đến cho chính mình sao.

Và thế là vào một ngày tạnh mưa không một áng mây mù của tháng bảy, Mae Kaew, 36 tuổi đời, quỳ trước tăng và ni chúng của Tu viện Wat Nong Nong, bỏ lại tất cả phiền muộn khổ ải của cuộc sống thế tục sau lưng, với tất cả tâm huyết thành khẩn mang trong lòng từ lâu, Mae Kaew chính thức trở thành một Ni Cô. Cái ngày hoan hỉ nhất đời cô, cô đến Tu viện thật sớm, dùng một bữa cơm thanh đạm với tất cả ni chúng. Sau đó mọi ràng buộc của cuộc sông thế gian dần dần được gỡ bỏ, từ quần áo, vàng vòng nữ trang, đến những lọn tóc đen dài mượt mà… rớt xuống thành một đống trước mặt. Bụng dạ sôi nổi những hân hoan, cái đầu trần trụi lởm chởm một tí cùi tóc còn lại. Nhìn mài tóc đen mượt của mình vừa được sư Mae Chee Dang cắt bỏ rơi rớt trên nền nhà xung quanh chân nàng, Mae Kaew nghĩ đến lời dạy về tấm thân con người đều là giả tạo, chẳng có gì là thật cả. “Tóc chỉ là một phần của vật lý thiên nhiên của vũ trụ. Nó chẳng phải là một thực chất thiết yếu để ta mới có thể là ta.”
Sau khi Sư Mae Chee Dang cạo hết tóc cho nàng, những sư khác tiến tới đắp lên người nàng chiếc áo trắng tinh truyền thống của một ni cô, với chiếc váy dài quấn ngang lưng, một áo ngắn rộng khổ với những cái nút trên vai gần cổ, và mảnh vải dài cuộn phía duới cánh tay phải và vắt lên vai bên trái. Họ dạy nàng cách đắp y trịnh trọng với tư cách của một trưởng nữ Như Lai.

Sau 20 năm dài trong cuộc sống hôn nhân tẻ nhạt, cuối cùng cánh cửa đã được mở ra mời gọi Mae Chee Kaew, nàng đã bước qua ngưỡng cửa tâm linh, thực sự trở thành con người xuất gia tu hành, buông bỏ thế gian ô trược trong thời hạn ấn định. Nàng vẫn tôn trọng lời hứa sẽ trở về với chồng con sau mùa mưa. Nhưng trong thời gian vắng mặt, chồng nàng sinh tật rượu chè say xỉn, và bắt đầu phản bội nàng. Anh ta có người yêu khác. Cảm thấy không thế nào cứu vãn được hôn nhân, Mae Keaw đành lòng đem đứa con gái 8 tuổi trả lại cho mẹ ruột của nó. Nàng trở lại tu viện vĩnh viễn một lần cuối.

Sư Cô Mae Chee Kaew tu hành nghiêm mật có tiếng. Năm 1945, Bà xây dựng một cơ sở tu tập cho nữ giới ngay tại làng quê Baan Huay Sai của bà. Lời tiên đoán thứ hai của ngài Ajaan Mun năm xưa là sẽ có những vị đạo cao đức trọng hiện diện để giảng dạy và hướng dẫn bà trong con đường tâm linh nay cũng thành sự thật. Ngài Ajaan Maha Boowa đã đến vào năm 1950. Dưới sự dẫn dắt của ngài, bà quyết tâm tu tập cho đạt đến chánh quả. Bà bắt đầu quán chiếu thâm sâu về tấm thân tứ đại cho đến khi không còn một ngờ vực nào hiện hũu cả. Sau đó đến quán về cái tâm của mình. Sống ẩn dật trong rừng sâu núi thẩm, yên tĩnh trầm lặng, quyết chí tinh tấn ngày đêm để chóng đạt tới “sự thật”. Và rồi một hôm, trong tĩnh mặc của thiền định, ánh hào quang chói rọi, bản chất chân như hiển hiện trong đại dương diệu vợi của Niết Bàn.

Ni Sư Mae Chee Kaew được xem như một bậc A La Hán của thời đại văn minh ngày nay – một trong những vị đã thành chánh quả. Ni Sư là chúng nhân cho lời dạy của Phật là ai tu sẽ chứng, chúng sanh đều có Phật tánh, và sẽ thành Phật, không phân biệt màu da, chủng tộc, cấp bậc….

Bhikkhu Silaratano (tên đời là Richard E. Byrd, Jr.) xuất gia và thọ giới Sa di năm 1975 tại Bangalore, Ấn Độ. Thầy tiếp tục học và tu bên Sri Lanka và thọ Tỳ Kheo tại chùa Sri Vajiragnana Dharmayatanaya ở Maharagama, Tích Lan vào năm 1976. Qua Bangkok, Thai Lan, Thầy thọ thêm giới riêng của tông phái Dhammayut tại Wat Bovornives Vihara. Những quyển sách đã xuất bản của Thầy gồm có những bản phiên dịch từ sách của Ngài Ajaan Maha Boowa mang tựa đề “Acariya Mun Bhuridatta Thera (thai) –  A Spiritual Biography (english) – Tiểu Sử Tâm Linh (vietnamese)”, và rất nhiều bài giảng thâu thập được của ngài Ajaan Maha Boowa mang tên là “Arahattamagga Arahattaphala (thai) – The Path to Arahatship (english) – Con Đường Thành Tựu A La Hán Quả (vietnamese).”

Tranh vẽ của Upaporn Srisroy, “The Town of Loei”, “Cotton Blossoms”, và “Cotton Blossoms in the Town of Loei” tranh dầu trên nền vải, xuất bản năm 2010.

Thánh Thủy (The Buddhist Translation Group