Tiểu Ni

Dạo ấy Ni đi rồi sân chùa không còn ai quét lá đa nữa.

Nói vậy thôi chứ sân chùa có lúc nào vắng bóng người qua lại. Ai đến ai đi, mỗi mùa lá đổ đều có đóng góp đôi chút công sức cho mảnh sân khu vườn thêm thoáng đãng tươm tất…

Sáng sớm vị sư nữ ra mở cổng Tam Quan quét dọn. Sương mù còn giăng kín ngõ. Thoáng chút se lòng sư cô đứng lặng giữa sân như để tĩnh tâm hít thở, nhưng ý tưởng lại miên man trước bao cảnh tượng đang diễn ra. Tiếng chim con vừa mở mắt đã chuyền cành ríu rít. Muôn hoa còn ửng nụ lại vươn tầm khoe sắc trước lúc ánh bình minh nghiêng mình tỏa sáng. Bên dưới nền đất ẩm ướt còn in rõ dấu chân người. Có vài chiếc lá khô bị dẫm nát. Dường như có gì bất thường nơi phía gốc cây bồ đề. Sư cô bước lại nhìn và thảng thốt kêu lên khi nhận ra một hình hài bé xíu được bọc trong tấm khăn bông. Có tiếng khua động của sự sống cùng những âm thanh rời rạc vọng lên từ cõi chết đang kêu gọi bàn tay người cứu độ. Cảnh đời lao xao cớ chi lại làm vướng bận đến chốn thiền môn này hay vì muốn thử thách lòng người nơi cửa Phật từ bi.

Tiểu Ni được cứu sống và nuôi dưỡng ở chùa từ ngày còn đỏ hỏn như thế. Không ai biết tông tích cha mẹ của cô diệu. Thôi con chùa thì chùa nuôi. Sư cô thường nói vậy khi có ai hỏi đến. Mà cũng chẳng ai buồn thắc mắc làm gì. Chuyện những đứa trẻ sơ sanh bị đem bỏ trước cổng chùa xưa nay chẳng hiếm. Quan Âm Thị Kính từng ẵm nuôi một đứa bé và hứng chịu nỗi oan khiên không một lời phân giải.

Ngày qua ngày Tiểu Ni lớn lên cũng không nghĩ đến đi điều gì khác hơn là giữ mình theo khuôn phép nhà chùa. Khuya tối lo việc chuông mõ công phu tịnh độ. Sáng sáng lại ra quét dọn hốt lá rụng trước sân, đùa vui đôi chút với mấy chú cún con, rồi vào lo bài vở, cơm nước xong thì cắp sách đến trường. Cho đến khi khôn lớn, Ni chưa bao giờ đi xa hơn con đường đất từ chùa đến ngôi trường làng chỉ cách vài cây số.

Vậy mà… tin cô diệu Tiểu Ni rời bỏ đời sống đạm bạc nơi mái chùa quê làm xôn xao cả xóm như thể chuyện lạ có người ngoài hành tinh đến trái đất này vậy. Người ta chỉ biết mập mờ nên suy đoán lung tung. Bởi chẳng ai chứng kiến sự việc đến đi của cô. Sư cô trước sau chỉ im lặng. Tâm người ắt hẳn đã an định trước mọi lẽ đến đi vô thường của cuộc sống, hay đã quen rồi với những diễn biến thay đổi trong chốn chùa chiền nên chẳng tỏ vẻ bất ngờ giao động. Ai hỏi đến thì sư cô chỉ nhỏ nhẹ mấy lời:

– Nghiệp trần lôi kéo biết làm sao hơn. Nhân duyên của nó chỉ ở chùa chừng ấy thôi mà.

Duy chỉ có tôi lại không xem chuyện đó là bình thường. Tôi chẳng phải là chỗ thân tình thân thuộc gì của Ni. Là bạn học nhưng không chung lớp. Là phật tử tôi chỉ đến chùa vào những ngày rằm lễ. Thỉnh thoảng phụ với Tiểu Ni quét sân hốt lá, có nói chuyện qua lại cũng chỉ là những lời mộc mạc của một thiện tín đối với một ni cô sớm nương nhờ cửa Phật.“Cắt ái từ thân, xuất gia hành đạo nghiệp”. Có nhiều lần tôi nghe Tiểu Ni đọc câu kinh này và thầm nghĩ đến đứa bé bị bỏ rơi năm xưa. Lòng Tiểu Ni ắt đã sớm tỏ ngộ lý pháp sâu xa nơi cửa đạo, nên mới xem nhẹ cảnh trần duyên mộng ảo. Tôi từng thấy nhiều nam sinh trong trường đứng ngẩn ngơ khi thấy cô ni có cung cách siêu phàm thoát tục đi qua. Nhìn Tiểu Ni khác nào búp sen trắng tinh khiết chỉ để dâng lên cúng Phật, hoặc đặt ở một nơi trang trọng nào đó. Dù có yêu thích, người ta cũng không thể ngắt bông hoa kia trang điểm cho riêng mình. Một loài hoa sanh trưởng nơi tôn nghiêm như vậy cớ sao lại dễ dàng vướng lụy trần ai.

Thời gian nhanh chóng trôi qua mang theo bao chuyện vui buồn hư thật. Tôi đi học, đi làm ở xa. Lâu lâu ghé tạt về thăm quê rồi lại vội vã đi ngay, gần như quên hẳn ngôi chùa cùng hình bóng cô ni nhỏ năm nào. Một lần về giỗ nghe cô em họ nói:

– Cô Tiểu Ni trở về chùa rồi đó anh Hai!

– Tiểu Ni nào? Tôi hỏi và cũng lờ mờ hiểu ra…

– Thì Tiểu Ni bạn học của anh hồi đó đấy. Ngày trước ở chùa xinh xắn là vậy. Bây giờ trở lại cùng đứa con nhỏ, trông tàn tạ đến tội.

– Cô ấy trở về thăm chùa à?

– Nghe nói cô trở về đời lấy chồng được vài năm thì hạnh phúc đổ vỡ. Gia cảnh cũng khổ, nên đành mang con trở lại chùa. Ni sư thương tình nhận cả hai mẹ con. Cửa chùa lúc nào cũng rộng mở… hơn nữa hồi nhỏ cô từng ở chùa, ai cũng thương…

Cô em tôi lại chép miệng than thở:

– Phải chi cổ còn tu… cũng lên tới gì rồi. Bây giờ cổ chỉ là người làm công quả ở chùa để nương nhờ tấm thân. Em nghe nói người ăn cơm chùa từ nhỏ là mắc nợ của thập phương bá tánh, nếu ra đời thường không thành đạt gì.

Tôi lắc đầu ngắt lời:

– Không hẳn vậy đâu. Nhưng hoàn cảnh như Tiểu Ni thì quả thật tội.

Tôi đến chùa. Sân ngoài im vắng. Có bóng người lom khom quét dọn. Cảnh vật không thay đổi mấy mà người trở về đã hoen màu sương gió phong trần. Người thiếu phụ với mái tóc ngắn rối trong bộ bà ba nâu bạc không che hết khuôn mặt xanh xao cùng một thân hình gầy còm xơ xác. Một con người… lúc này chỉ còn là chiếc bóng chập chờn chưa đủ lấp vào chỗ thâm u bên góc hiên chùa. Nghe động Tiểu Ni ngước lên nhìn, song lại cúi xuống làm việc. Tiểu Ni đã mặc nhiên nhìn sự thế hay không muốn nhớ đến những gì thuộc về dĩ vãng một thời. Lá vàng rơi đầy sân biết có khỏa lấp hết nỗi niềm riêng tư câm lặng này.

Không muốn làm khuấy động tâm người nên tôi chỉ yên lặng vào chùa lễ Phật rồi trở ra. Đài sen ngoài kia đã khô cạn. Những cánh hoa rũ tàn trong nắng gió, khiến xui lòng người còn vương vấn chút hương xa. Chiếc tịnh bình của Bồ Tát Quan Âm với thần thông diệu dụng là thế mà vẫn không sao dập tắt hết ngọn lửa tình trong bể ái trầm mê. Thoáng xao lòng, tôi buột miệng ta thán:

– Tạo hóa thật bất công. Người đã cho ra đời một dung nhan bạt tụy như thế sao lại nỡ đem vùi dập chẳng chút tiếc thương. Người đã bỏ rơi một hình hài trẻ thơ trước cổng chùa, còn đẩy vội người ta ra ngoài làm chi để không phương chống đỡ với đời. Tiểu Ni mang con trở lại chùa có khác gì chút nắng vàng héo hắt buổi chiều thu chỉ còn biết đợi chờ cho đêm tối qua mau.

Dạo này tôi hay có chuyện về thăm quê hơn. Chuyện làm ăn, chuyện đất đai thời kinh tế thị trường ngày càng đưa đến cảnh phân chia đáng buồn giữa những người anh em cật ruột. Những lúc căng thẳng mệt mỏi, bước chân tôi lại đi đến chùa. Mái chùa bao năm vẫn nép mình yên ả trước cảnh bon chen sự thế. Tôi đến chùa… bao lần chỉ để ngắm nhìn những cây sứ nở hoa rực rỡ. Bao lần vẫn thấy mặt sân đầy lá rụng cùng một bóng người thầm lặng quét dọn. Tiểu Ni làm việc gần như suốt ngày, hết trong chùa lại ra sân, không chuyện trò cũng chẳng quan tâm đến điều gì ngoài phận sự. Hạnh phúc mà cô còn giữ được chính là đứa con nhỏ. Có lẽ tình mẫu tử cùng niềm tin đạo pháp đã ít nhiều giúp lòng cô khuây khỏa. Người lui tới chốn già-lam cũng cám cảnh thương tâm nên hết lòng giúp đỡ hai mẹ con. Tôi thường ngắm mấy chú chim sâu chăm chỉ làm việc trên cành để ví von cho cảnh tình của người mẹ trẻ. Và cảnh chim mẹ mớm mồi cho con mà vẫn cất cao giọng hát để góp chút thanh sắc cho đời luôn khắc sâu vào tâm trí lòng người.

Chú tiểu nhỏ đang lăng xăng trước sân. Chú phụ mẹ quét sân, rỗi việc lại chạy loanh quanh theo mấy chú chó, thỉnh thoảng cười lên một cách vô tư nghịch ngợm. Tôi đứng lặng vì nhận ra bóng dáng của Tiểu Ni ngày nào. Chú tiểu được Sư già thế phát xuất gia cạo ba chỏm. Trông ngộ nghĩnh và dễ thương như chú đạo theo hầu Bồ Tát. Tính cách tinh nghịch hiếu động của trẻ thơ, gần như tương phản hẳn với vẻ cô liêu thầm lặng của người mẹ. Chẳng biết làm gì, tôi đến ngồi xuống bên gốc cây Ta La, đưa tay lượm mấy bông hoa rụng dưới đất. Tôi thích màu hoa Ta La không hẳn vì niềm kính ngưỡng Phật Pháp mà bởi một lẽ rất thường tình…vì màu hoa đẹp. Hồi ấy mỗi lần quét sân, Tiểu Ni thường lượm vài bông hoa đem vào để trên bàn học rồi thuyết giảng cho tôi nghe sử tích về đức Phật. Bây giờ hoa Ta La rụng đầy sân, nhưng người quét dọn lại gom chung vào đống rác.

– Mô Phật! Tiểu Nghi chào chú ạ!

Tôi hơi bất ngờ khi chú tiểu đến bên chào hỏi với vẻ thân thiện tự nhiên. Đưa tay xoa chỏm tóc bé xíu của chú, tôi khẽ hỏi:

– Chú tên Tiểu Nghi. Tên nghe hay lắm. Vậy Tiểu Nghi dẫn đạo hữu lên chùa lễ Phật nhé.

Tiểu Nghi ngoan ngoãn đưa tôi lên chánh điện. Chú ý tứ lấy nhang đưa khách rồi đánh ba tiếng chuông ra chiều rất thông thạo. Lễ Phật xong tôi móc ví lấy vài tờ giấy bạc rồi nhỏ nhẹ nói:

– Chú xin biếu ít tiền để Tiểu Nghi mua bánh dùng với mẹ.

Chú lắc đầu: – Không được đâu. Mẹ không cho phép lấy như vậy. Chú bỏ tiền vào thùng công đức của chùa đi.

Tôi thẫn thờ nhìn dáng chú bé thoăn thoắt chạy ra. Có cơn gió chiều vừa thổi qua. Mảnh sân sạch mới quét xong lại đầy ắp lá vàng. Bóng hai mẹ con liêu xiêu quét dọn hốt lá. Mặc cho gió thổi. Mặc dòng đời tấp nấp ngược xuôi muôn nẻo.

Phải ngót gần hai mươi năm sau tôi mới có dịp trở lại thăm quê hương. Làng xã bây giờ cũng đang thích ứng dần cơ chế thời đô thị hóa. Bao nhiêu đổi thay cùng muôn nỗi bộn bề trong cuộc sống đã cuốn phăng hết mọi suy nghĩ hăm hở của thời trai trẻ. Nhưng cũng có lúc bản thân ý thức việc già nua sắp đến nên tôi tạm gác mọi việc để tìm cho mình một nơi chốn yên bình. Và thế là tôi khăn gói về quê nghỉ ngơi luôn thể hoàn tất vài việc cần thiết cho gia tộc vì e ngại đời người hữu hạn. Vừa chân ướt chân ráo bước vào nhà đã nghe đứa cháu thông báo:

– Cô Ni vừa mất đấy, cậu Hai.

Tôi thủng thỉnh ngồi xuống bộ ván hỏi:

– Cô Ni nào vậy?

– Dạ cô Tiểu Ni ở trên chùa đó. Đám hổm rày. Chiều nay chôn rồi. Cháu nghe nói cổ là bạn học với cậu.

Đến bây giờ mọi người vẫn gọi cô với cái tên thân quen ấy. Đến bây giờ… tôi mới sực nhớ ra. Cuộc đời và cả tên gọi của con người ấy, vẫn mãi là vết thâm buồn lẩn khuất đâu đó trong cõi lòng tôi. Nhiều năm không gặp, thỉnh thoảng cái vóc dáng tiều tụy của cô cũng thấp thoáng qua tâm trí. Tôi không biết làm gì để giúp cô ngoài ý tưởng cầu mong mẹ con cô luôn sống yên vui và tìm được hạnh phúc dưới mái chùa. Nay tôi trở về lại đúng lúc cô vừa tạ thế. Chẳng hiểu duyên số hay định mệnh lại bắt tôi phải nghĩ đến cô cho đến tận giây phút cuối đời.

Chiều khi tôi đến chùa đã thấy chật kín người đến đưa đám. Đứa con trai của cô, bây giờ đã là một vị đại đức chững chạc uy nghiêm đang chủ trì buổi tụng kinh niệm Phật tiếp dẫn hương linh. Nghe nói đại đức Thiện Nghi đang trụ trì một ngôi chùa trên tỉnh. Tiểu Ni xuất gia lại khi lớn tuổi nhưng vẫn giữ phận cô vải làm công quả. Cô không theo về ngôi chùa của con vì muốn giữ trọn ân tình với nơi mình đã nương náu bao năm. Hình người trong ảnh mang bóng sắc của một ni cô luống tuổi trong chiếc áo nhật bình lam dịu dàng từ ái, gương mặt ánh lên nụ cười thanh thoát mãn nguyện. Nụ cười đằm thắm của ngày xưa. Người đưa đám phần nhiều là đạo hữu của chùa. Họ biểu lộ sự kính cẩn hơn là niềm bi ai thương cảm. Nhưng mà hình như người ta đang nói gì về cô thì phải…

– Cô đi nhẹ nhàng lắm. Hôm ấy cô hơi có bệnh, nhắn thầy Nghi về dặn dò vài câu. Đại khái là khuyên thầy giữ trọn đạo hạnh và tinh tấn tu hành. Sau đó cô có vẻ mệt nhưng vẫn lớn tiếng niệm Phật. Thầy và Phật tử cùng trợ niệm. Khoảng một giờ thì cô đi, gương mặt tươi hồng như nằm ngủ.

Mọi người còn bảo nghe cả mùi hương phảng phất quanh đó. Từ ngày trở lại mái chùa, cô sống khiêm cung lặng lẽ. Suốt ngày lo bòn công tích phước làm lụng chẳng kể thân. Việc tu niệm thì tinh mật. Nuôi dạy con thì nghiêm cách. Thầy Nghi rất có hiếu với mẹ. Tiểu Ni được như vậy cũng là đại phước, chắc chắn sẽ sanh về cõi Tịnh, không còn sợ duyên trần lôi kéo…

Không dưng tôi bật lên tiếng cười nho nhỏ. Tôi cười bởi những gì mình luôn cầu mong cho Tiểu Ni lại hiện thực một cách rõ ràng đến thế. Tôi cười vì cảm thấy nhẹ lòng thư thả. Lúc sống Tiểu Ni không bao giờ hờn trách hay phiền lòng ai, khi mất lại tạo được niềm tin tưởng hỷ lạc cho người. Trải qua bao sóng gió, cuối cùng con thuyền đời cô cũng xuôi về bến đỗ an lành.

Truyện Ngắn Lam Khê