Bài này là một phần trong loạt bài viết về “Bụt hay Phật”. Bài đăng lần đầu tiên qua chủ đề “Biết-Bụt-Phật” trên tạp chí Y Học Thường Thức, số 38 – tháng 5/6 năm 2000 (California, Hoa Kỳ). Khuynh hướng dùng từ Bụt như từ ‘mới’ thấy rõ nét trong vòng hai mươi năm trở lại, nhất là qua các bài viết của Thiền Sư Nhất Hạnh. Phần này sẽ đưa ra các dữ kiện ngôn ngữ văn hoá minh chứng từ Bụt (Nôm lõi) là dạng cổ hơn của từ Phật Hán Việt, do đó khuynh hướng dùng từ Bụt không phải là ‘mới’ như nhiều người lầm tưởng mà thật ra là ‘cổ’, và cổ lắm … Không phải tình cờ mà GS Joseph Edkins (trong “Chinese Buddhism” Chương XXV, 1893) đã từng đưa ra dạng âm cổ của fó (Phật đọc theo giọng Bắc Kinh hiện đại) chính là But : ông hoàn toàn không biết Bụt đã có mặt trong tiếng Việt từ lâu! Chuyến xe luân hồi (samsara संसार ) không chỉ chuyên chở nhân sinh, lịch sử mà còn ngôn ngữ con người chăng?
Ngôn Ngữ Học (Linguistics, đặc biệt là Ngôn Ngữ Học Lịch Sử/Historical Linguistics) bước vào một giai đoạn mới khi các nhà nghiên cứu bắt đầu thiết lập hệ thống so sánh các dữ kiện ngôn ngữ một cách khách quan1, không những thế – qua các khám phá (định luật, thống kê) tìm ra – nhiều khám phá mới cũng bắt đầu ra đời rất khắn khít với dữ kiện từ ngôn ngữ (càng ngày càng thâu nhận nhiều và chính xác hơn so với thời xưa). Ngôn Ngữ Học từ đó đã thoát khỏi quỹ đạo của truyền thống khoa học nhân văn để tiến dần đến một khoa học chính xác hơn. Điển hình là các quan hệ giữa phụ âm đầu trong tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha, La Tinh, Đức … mà ta khá quen thuộc. Thí dụ như định luật Grimm có liên hệ trực tiếp đến chủ đề bài viết này. Định luật âm thanh Grimm (Grimm’s law hay còn gọi là Rask’s-Grimm’s law, First Germanic sound shift) ra đời vào khoảng 1822. Người đọc có thể xem chi tiết về định luật này trên mạng http://en.wikipedia.org/wiki/Grimm%27s_law . Luật này ghi nhận sự tương đồng về phụ âm đầu trong ngữ hệ Ấn Âu (Indo-European languages) như các âm mạnh (strong sounds) trở thành âm yếu hơn (weak sounds) : ví dụ b, d, g trở thành p, t, k và sau đó thành f, θ, x …v.v… Thí dụ fish (cá, tiếng Anh), Fisch (Đức) là poisson (Pháp), pez (Tây Ban Nha), piscis (La Tinh) … warp (cong vòng, tiếng Anh), värpa (Thuỵ Điển), werpen (Hà Lan), verber (La Tinh) … Theo thiển ý và với khuynh hướng biến âm tự nhiên của tiếng nói (các phụ âm cùng vị trí phát âm ở môi và răng) nên luật Grimm không chỉ hiện diện trong ngữ hệ Ấn Âu, nhưng còn có thể áp dụng cho các ngữ hệ khác nữa. Thí dụ như tiếng Kara (ở New Ireland, thuộc Papua New Guinea)2 có các tương quan (b-p-f/ph) như sau
*bulan > fulan (mặt trăng)
*tapine > tefin (đàn bà)
…
Nhìn lại các ngôn ngữ vùng Đông Nam Á, nhất là tiếng Hán, Hán Việt : không phải ngẫu nhiên mà Phục Hy 伏羲 hay 宓羲còn có các tên gọi khác là Bào Hy (庖羲), Bao Hy (包羲), cũng như Phùng Khắc Khoan 馮克寬 còn có tên gọi là Trạng Bùng (ông gốc người làng Bùng, xã Phùng Xá) … Phần này chỉ giới hạn vào biến âm b > p > f (ph-) trong tiếng Hán, Hán Việt (HV) và Việt. Các dữ kiện ngôn ngữ trong bài không có trích nguồn vì rất dễ kiểm tra lại, ngoại trừ một số tài liệu Ngôn Ngữ Học hay nguồn dữ liệu đặc biệt quan trọng cho bài này. Các chữ có dấu hoa thị (asterisk) đứng trước là dạng âm cổ phục nguyên (reconstructed form). Người viết sẽ tránh dùng các thuật ngữ Phật Giáo, Ngôn Ngữ Học … để bạn đọc cảm nhận các nhận xét và dữ kiện trong bài dễ dàng hơn. Không nên lẫn lộn số thứ tự cho phụ chú và thanh điệu trong bài. Phần sau chứng tỏ phần nào hiện tượng Bụt-Phật trong tiếng Việt thật ra chỉ là một trường hợp phản ánh khá rõ nét các âm cổ Việt còn tồn tại so với các âm Hán Việt nhập ngược vào có hệ thống hơn từ thời Đường Tống, cũng như trường hợp tên gọi 12 con giáp vậy. Nhìn rộng ra hơn, đạo Phật qua tiếng Phạn và kinh điển đã làm vốn từ tiếng Hán trở nên rất phong phú. Có học giả Trung Quốc, như GS Peter Hu (Đại Học Jiangsu) trong bài viết “Adapting English to Chinese”, từng ước tính vốn từ Hán (Cổ) tăng thêm khoảng 35000 chữ mượn6 từ tiếng Phạn và kinh Phật; Hay xem thêm phần 4.1 bên dưới hay chi tiết trên mạng vi.wikipedia địa chỉ http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%ADt hay bài viết http://www.khoahoc.net/baivo/nguyencungthong/150109-muoihaicongiap-suu-2.htm
1. Giới thiệu tổng quát
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hoá dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật và
“Gần chùa gọi Bụt bằng anh, của Bụt lại thiêu cho Bụt, của Bụt trả Bụt (của ‘chùa’ hay của không tự làm ra thì không bền, dễ đến dễ đi), bẻ tay Bụt ngày rằm, Bụt trên toà sao gà mổ mắt, Bụt (chùa) nhà không thiêng, Bụt chùa nhà không thiêng đi cầu Thích Ca ngoài đường, Bụt không thèm ăn mày ma, Bụt nhiều oản tí, ngồi như bụt ốc (ngồi như phỗng), ngồi như bụt mộc, chùa nát có Bụt vàng (chùa đất có Phật vàng), lành như Bụt, hiền như Bụt (hiền như đất, hiền như phỗng đất, hiền như cục bột), đất Bụt ném chim giời, Dù xây chín đợt phù-đồ – Không bằng làm phúc cứu cho một người, Đi với Bụt mặc áo cà-sa – Đi với ma mặc áo giấy …v.v…”
Hay
Miệng na mô (nam mô) bụng bồ dao găm (thành ngữ)
Đất vua chùa làng, phong cảnh Bụt (thơ cổ)
Sư rằng cửa Bụt thênh thênh (Nhị Độ Mai)
Chỉ mong cầu khấn Bụt Trời (Nhị Độ Mai)
Chỉn Bụt là lòng (Cư Trần Lạc Đạo)
Vẹn nhơ chẳng bén, Bụt là lòng (Nguyễn Trãi)
Chưa dễ ai là Bụt Thích Ca/Mọi điều nhân nghĩa nhẫn thì qua (Nguyễn Bỉnh Khiêm)
…v.v…
Khác với Bụt chỉ thấy trong tiếng Việt, Phật cũng có mặt trong ca dao tục ngữ trong văn hoá Trung Quốc và Việt Nam – nhưng chiều ảnh hưởng rõ ràng là từ Trung Quốc qua VN :
Phật tâm xà khẩu佛心蛇口 (thường nghe Phật khẩu tâm xà hay khẩu Phật tâm xà … hơn)3
Phật khẩu thánh tâm 佛口聖心 , A Phật mạ tổ 啊佛罵祖 (dám nói dám làm …)
Giản Phật thiêu hương 揀佛燒香 (chọn Phật mà cúng, ra vẻ tốt lành bề ngoài để lợi dụng …)
Phóng hạ đồ đao , lập địa thành Phật 放下屠刀,立地成佛 (bỏ quá khứ xấu để trở thành người tốt/Phật ngay …)
(Lâm thời) bão Phật cước臨時抱佛腳 (có chuyện mới tới cầu Phật – tục ngữ nhập vào Trung Quốc thời Đông Hán. Văn hoá dân gian VN còn truyền tụng “Ngày thường không thắp hương, gặp nạn đến ôm chân Phật” – trích ‘Dictionnaire vietnamien chinois francais’ của Gustave Hue (1937)
Tá hoa hiến Phật 借花獻佛 (lấy đồ của người này đem tặng kẻ khác, mượn đầu heo nấu cháo …)
Phật tính thiện tâm, Phật đầu khán phẩn, Phật đầu trứ phẩn, Phật đầu gia uế (佛性禪心 佛頭着糞 佛頭著糞 佛頭加穢), kiến tính thành Phật 見性成佛 …v.v…
Qua các cách ghi nhận văn hoá dân gian trên, ta rất khó phân biệt mức độ thâm nhập của hai từ Bụt và Phật – vấn đề sẽ rõ hơn khi đi sâu vào cách đọc và nguồn gốc chữ (Hán) của hai từ này.
2. Các cách đọc hiện tại của Bụt và Phật
Việt Nam Bụt (dân gian) so với Phật (Hán Việt/HV) –
Mường (Bi) put (Bụt), Phât (Phật) – như ‘Liênh chùa mà ngỏ put’ (lên chùa mà xem Bụt)
Gia Rai mơnuih pơsêh (Phật)
Khme pút – kêu trời như ‘Phật ơi’ là ‘pút thô’ (so với trời ơi, chúa ơi, mẹ ơi … tiếng Việt)
Kờho Phợk – tượng Phật rùp Phợk
Thái พุทธ póot – tượng Phật พระพุทธรูป prá-póot-tá-tá-rôop
Myanmar (Miến Điện) Buđa
Lào Phuth – phuthô/phuđô (Phù Đồ, Phật Đà)
Nùng Pụt
Chăm/Chàm Bhik, Phik (có tài liệu ghi là But4)
Bắc Kinh/BK fú, fó, bó (theo pinyin) so với giọng Ngô (Thượng Hải) là vơi?, giọng Đài Loan
là hut8,fut8 (để ý các phụ âm đầu f,b,v) – giọng Quảng Đông là fat6 fat1 bat6, Hẹ là fut8; giọng Triều Châu (Tiều) là hug8, hug4 (huk)
Nhật butsu, futsu, hotsu ふつkanji 仏- Phật còn dùng để chỉ người quá cố (mỹ từ)
Tiếng Nhật có khuynh hướng hầu hoá (glottalisation) phụ âm môi đầu như bèi, bò BK bắc HV > hoku/hai – bó BK bạch HV > haku/byaku – bò/ba BK ba Việt ha/ba Nhật … Nên có ba dạng biến âm but- fut- và hot- như trên so với giọng Đài Loan
Hàn pwul (pul), phil 불
Mã Lai/Inđô buda
…v.v…
Một nhận xét sơ khởi khi xem bảng so sánh trên là các giọng phía nam Trung Quốc (Quảng Đông, Hẹ, Hán Việt) đều có dạng f- (hay ph-). Chữ Nôm dùng bột 孛 (sao chổi) chỉ Bụt trong Cư Trần Lạc Đạo, và 佛 Phật HV cho thấy hai phụ âm b- và f- cùng hiện diện, điều này rất đáng chú ý vì hiện tượng này (hai chữ Bụt và Phật) chỉ có trong tiếng Việt.
3. Các cách đọc cổ hơn
Đi ngược dòng thời gian và dựa vào các tài liệu Trung Quốc như Khang Hy/Tập Vận/Đường Vận, âm Hán trung cổ của Phật佛là
【唐韻】【集韻】【韻會】【正韻】符勿切,音咈 [Đường Vận][Tập Vận][Vận Hội][Chánh Vận] phù vật thiết, âm phất
【集韻】【正韻】蒲沒切,音浡 [Tập Vận][Chánh Vận] bồ một thiết, âm bột – dùng như bật 同弼 (cũng theo Khang Hy chép lại)
Rõ ràng là có hai cách đọc khác nhau bột và phất/phật thời Đường Tống. Cách đọc phổ thông bây giờ (giọng BK) là fó chứ ít khi là bó (ghi theo bính âm/pinyin).
Đi ngược dòng thời gian xa hơn nữa đến thời Hán, theo Thuyết Văn Giải Tự thì Phật 佛 được Hứa Thận ghi nhận là
4995 見不審也。从人弗聲 kiến bất thị dã – hàm ý không thấy rõ, như cách dùng phảng phất5 (仿 佛 hay bàng phất 彷 彿) mà tiếng Việt còn duy trì âm và nghĩa rất cổ như cách dùng ‘hình bóng phảng phất đâu đây, tiếng phảng phất bên tai …’
Nguồn gốc của chữ Phật cho thấy là loại chữ hình thanh, đúng như Hứa Thận đã nhận xét – tuy ông không ghi nhận nghĩa Phật là Phật Đà (Phật Tổ) trong thời Đông Hán
Seal Characters (chữ triện) – trích từ mạng của tác giả Richard Sears http://www.chineseetymology.org/CharacterASP/CharacterEtymology.aspx?characterInput=%E4%BD%9B&submitButton1=Etymology
Phật 佛
Chữ Phật không có mặt trong kim văn và giáp cốt văn : điều này cho thấy phần nào thời gian đạo Phật nhập vào văn hoá Trung Quốc – không thể trước thời Tần; Tóm lại, các dạng viết chữ (Hán) Phật có khả năng là các chữ tạo ra hay lấy từ dạng có sẵn và dùng để ký âm một tiếng ‘nước ngoài’(ta sẽ thấy trong phần sau : tiếng ngoại quốc này là tiếng Phạn, tiếng Việt Cổ) nhập vào văn hoá cổ Á Đông.
4. Gốc Phạn ngữ của Bụt và Phật
4.1 Theo Nam Sơn Giới bản sơ thì ‘Tiếng Phạn Phật Đà, Phù Đồ … Có lẽ do lưu truyền sai. Ở đây không phải chỉ người, dịch nghĩa là giác …’; Còn theo Tông Luân Luận Thuật Ký thì ‘Phật Đà, tiếng Phạn, dịch là giác, tuỳ ý lược bớt chỉ gọi là Phật …’6. Phật Đà là một dạng phiên âm từ tiếng Phạn budh- có nghĩa là biết, ý thức được … Tiếp vị ngữ (hậu tố/suffix) -a thêm vào động từ budh- cho ra dạng buddha बुद्ध nghĩa là đã giác ngộ (past participle, động từ chỉ quá khứ), người đã giác ngộ (dịch là giác giả). Nếu thêm a- vào trước budh- hay là thêm tiền tố (prefix) thì ta có dạng a-budhá अबुध là ngu đần; Các dạng liên hệ khác là bodhi बोधि (phiên âm HV bồ đề 菩 提, tiếng Nhật bodai hay satori ) là biết lẽ chân chính (dịch nghĩa là chính giác 正覺), bauddha बौद्ध giữ trong trí óc (tinh thần) … Cấu trúc tiếng Phạn (đa tiết) đã ảnh hưởng phần nào đến quá trình thành lập chữ Hán như các cụm từ vô minh, vô ngã, vô lượng, vô thường, vô vi, vô đẳng, vô đạo, vô học, vô hình, vô ngôn, vô ái, vô sinh, vô si, vô tận …v.v… Với vô dùng như tiếp tố a- nói trên.
4.2 Rõ ràng Phật, Phật Đà là các từ nhập từ tiếng Phạn, cho nên Bụt, bật, bột và Phất, Phật chỉ là các dạng biến âm mà âm cổ hơn (gần âm Phạn nhất) là Bụt hay bột, bật. Khuynh hướng biến âm từ b thành ph- đã có nhiều học giả bàn đến : từ thời Henri Maspéro (1912, ông nhận xét hiện tượng tách b-ph ở Hán Việt hoàn toàn ăn khớp với quá trình phân hoá phụ âm môi môi và môi răng của tiếng Hán Trung Cổ), tới thời Vương Lực, cũng như Nguyễn Tài Cẩn7 và Lê Văn Quán8. Ngoài liên hệ budh- Bụt Phật, ta còn có những liên hệ tương tự chứng tỏ chiều biến âm b > ph như Phạm (Phạn) 梵 là phiên âm của Brahmá (tiếng Phạn) ब्राह्म ; Phạm/Phạn còn có các dạng phiên âm khác như Phạm ma, Bột lạm ma, Bà la hạ ma, Một la hám ma, Phạm lãm ma … Phạm/Phạn9 gắn liền với Phật và Ấn Độ như Phạm học là Phật học, Phạm vũ là chùa (thờ Phật, tu viện), Phạm ngôn (kinh Phật), Phạm thổ (nước Ấn Độ), Phạm Hoàng (vua Ấn Độ, Phật Tổ) … Điều này dễ hiểu vì kinh Phật thường dùng tiếng Phạn. Trong phần này, tiếng Phạn (Sanskrit, so với tiếng Phạn Nam/Pali) dùng như là một thước đo và để so sánh (control sample) vì là một loại tử ngữ (dead language, rất ít người dùng trừ khi đọc kinh và cũng chỉ ở một vài nơi), quan trọng hơn là tiếng Phạn rất ít thay đổi (ngữ âm và ngữ pháp) và ta có khá nhiều dữ kiện để luôn kiểm chứng được cách đọc và viết. Tuy không ghi nhận phật 佛 là Phật Đà/Phật Tổ nhưng Hứa Thận có nhận ra Phạn là dạng phiên âm của đạo Phật (Thích giáo) trong Thuyết Văn Giải Tự
3837 林部: 梵:出自西域釋書,未詳意義
3837 Lâm bộ : Phạm/Phạn : xuất tự tây vực thích thư , vị tường ý nghĩa
Âm trung cổ cho thấy Phạn đọc như phàm (buồm) theo Đường Vận : phù phiếm thiết, âm phàm (thật ra kết quả này không làm ta ngạc nhiên vì cấu trúc của chữ Phạm : bộ lâm 林 hợp với chữ phàm凡hài thanh).
4.3 Phá/pha la đoạ 頗 羅 墮 hay Phả La Trá là phiên âm của Bharadvaja भारद्वाज : một trong 6 họ Bà La Môn (quí tộc)
4.4 Phum ở Nam bộ là làng thôn với luỹ tre bao quanh, liên hệ đến phum (tiếng Khme nghĩa là làng). Phumi (phuuM miH) ภูมิ tiếng Thái có nghĩa là địa phương, đất, nền nhà; Tiếng Môn Cổ phùm là đất, lãnh thổ cũng như tiếng Môn hiện đại, tiếng Chao Bon (Nyah Kur) … Theo thiển ý, các tiếng phum, phumi có gốc tiếng Phạn bhumi भूमि (đất, nền, địa phương, lãnh thổ, nước/quốc gia …). Bhumi lại có gốc tiếng Phạn là bhu– भु (trở thành, trở nên : to become, to grow into); Tiếng Phạn Nam/Pali bhu là trái đất. Trong kinh Phật, bhumi dịch nghĩa thành địa như Thập địa hay Thập trụ (dasabhumi – 10 giai đoạn bồ tát trở thành Phật), bhudana (người chủ đất chia đất mình cho người nghèo) …
4.5 Cây gambu hay jambu (tiếng Phạn là जम्बु rose apple)- phiên âm thành Diêm phù thụ 閻浮樹 . Loại cây này không mọc ở Trung Quốc nhưng rất thường gặp ở xứ nóng (Ấn Độ, Mã Lai …), giống như cây ổi cho nhiều bóng mát. Tương truyền đức Phật từ bỏ ngai vàng và xuất gia dưới cây này. Phụ âm b- (jambu) tương ứng với phụ âm ph- (Diêm phù).
4.6 Liên hệ lịch đại (diachronic) giữa phụ âm môi tắc hữu thanh b- và xát vô thanh ph- rất rõ nét khi so sánh tiếng Việt và Hán Việt
Buông phóng 放 (phủ vọng thiết, phân phòng thiết – Đường Vận/ĐV)10
Buồng phòng 房 (phù phương thiết/ĐV)
Bùa phù
Bù phù
Búa phủ
Bụa (goá) phụ
Bộ pho
Bể phá
Bể (biển)11 pha 陂
Bán, buôn phán
Buồn phiền
Buồm phàm
Bún Phấn
Bỏ phế
Bá phách
Bố/ba phụ
Bưng phụng
Bay phi
Buộc phọc
Bùng Phùng (Trạng Bùng là Phùng Khắc Khoan công thần nhà Lê, người làng Bùng)
Bè phái (phe)
Bèo phiêu
Bởi vị/vì
Bụt Phật
…v.v…
Liên hệ đồng đại (synchronic) b-ph cũng hiện diện nhưng ít gặp hơn như
Bỏng phỏng
Bứt phứt (phứt lông chim – Việt Nam/VN Tự Điển)
Bổ (cắt) pha (VN Tự Điển)
Bình bịch phình phịch (từ láy, tượng thanh)
…v.v…
4.7 Chữ Phật đã được dùng trong Hậu Hán Thư – Tây Vực Truyện 后汉书 – 西域传 :
… 宣称三世十方,到处有佛 / 西方有神,名曰佛 …
… Tuyên xưng tam thế thập phương , đáo xứ hữu phật / tây phương hữu thần , danh viết Phật …
4.7.1 Cũng như các tài liệu trung cổ bên Trung Quốc như Tây Du Ký …v.v… Có nhiều tranh luận về nguồn gốc của chữ Phật : có học giả cho rằng chữ Phật đơn âm có thể là do cụm từ (đa âm) Phật Đà đơn âm hoá mà thành – xem thêm nguồn ghi ở điểm 4.1 bên trên; Điều này có cơ sở giải thích khi tiếng Phạn đa âm nhập vào tiếng Hán đơn âm thì hiện tượng rút gọn âm có thể xẩy ra như tăng già 僧伽 (samgha संघ) trở thành tăng để cho ra các từ kép (chữ Phạn hợp với chữ Hán) như bần tăng, tăng phòng, tăng đồ, tăng lữ, tăng vật, tăng chúng, tăng thống … Cù Đàm 瞿昙 (Go-tama गोतम) còn gọi tắt là Cù như trong cách dùng Cù Lão; Thiền na 禪那 (dhyana ध्यान) gọi tắt là thiền như trong các cách dùng thiền định, thiền môn, thiền kinh, thiền trượng … Bát là tên gọi tắt của bát đa la 鉢 多 羅 (pâtra पात्र) và dùng trong các từ ghép y bát, ngoã bát, phạn bát, chúc bát … (bát đã mở rộng nghĩa chỉ cái tô, cái chén …); Thích là tên gọi tắt của Thích Ca/Già 釋迦 (sâkya शाक्य) và các cách dùng như Thích giáo (đạo Phật), Thích môn, Thích điển, Thích tử (Phật tử, đệ tử của đức Phật); Sám 懺 là tên gọi tắt của sám ma (kshamá क्षम kiên nhẫn) dùng trong cụm từ sám hối 懺悔 (chữ Phạn sám hợp với chữ Hán hối), sám ma 懺摩, sám pháp 懺法, sám nghi …v.v…
4.7.2 Ngược lại với giả thuyết Phật Đà có trước Phật như trên, một số học giả đề nghị Phật có trước hay cùng thời với Phật Đà vì qua các con đường (nhập vào Trung Quốc) khác nhau. Thí dụ như qua trung gian các ngôn ngữ vùng Trung Á; Đề nghị này khá hấp dẫn vì con đường tơ lụa (丝绸之路, Ti Trù Chi Lộ/Silk Road) đã tạo cơ hội cho nhiều hoạt động và giao lưu văn hoá, tôn giáo, thương mại thời cổ đại. Nhà Phật Học Quý Tiến Lâm (1996) đã chứng minh rằng trong văn tự Hồi Hột, tiếng Phạn đa âm Buddha đã biến thành trọc âm Bụt, điều này cũng được tác giả Huỳnh Ngọc Chiến12 ghi nhận rõ ràng trong bài viết “Từ Buddha đến Phật và Bụt”. Ngoài ra kết quả nghiên cứu của ‘GS Chen’ cho thấy thời Hán từ song tiết Phật Đà không phổ thông so với từ đơn tiết Phật : điều này có thể là chữ Phật được dịch trực tiếp từ kinh Phạn địa phương và nhập trực tiếp vào Trung Quốc. Cũng như đề nghị của GS Sylvain Lévi (1913)13, kinh Phạn địa phương có thể là từ các nước Trung Á, và phù hợp với bài viết đăng trên mạng – xem thêm http://www.chibs.edu.tw/publication/LunCong/004/19_36.htm . Từ đơn tiết Phật, tuy nhập vào tiếng Hán (Cổ) qua ngã khác nhưng giản tiện hơn so với cụm từ Phật Đà, do đó càng ngày càng trở nên phổ thông.
4.7.3 Có thể Phật giáo đã đến Việt Nam trước khi truyền đến Trung Quốc không? Đây là một giả thuyết rất khác biệt với ‘niềm tin’ của đa số người cho rằng Phật giáo truyền từ Trung Quốc đến Việt Nam. Hãy xem lại các dữ kiện :
– Bụt (không thấy dùng Bụt Đà) trong văn hoá dân gian luôn chỉ người hiền lành hay Phật (tích cực, phù hợp với nghĩa nguyên thuỷ của buddha, rất khác với Phật của tiếng Hán; Phật đọc như phất với nghĩa tiêu cực như không, trái ý … ‘phật lòng’ hay Bật hay Bột (chợt) : điều này cho thấy người Hán không hiểu nghĩa của Bụt khi nhập vào tiếng Hán và chỉ ‘nhái’ lại theo âm mà thôi. Âm Bụt (chữ Nôm dùng bột孛) gần với âm Phạn Buddha nhất trong các ngôn ngữ vùng Đông Nam Á, các nền văn hoá này đã từng vay mượn chữ và ý này từ đạo Phật như bảng so sánh bên trên. Các ngôn ngữ láng giềng như Thái, Lào, Khme, Chăm … vẫn còn dạng đơn âm Bụt/Phut cũng như tiếng Mường (Bi) và Việt. Các cách dùng Bụt, Phật (với hai nghĩa khác nhau như phật lòng, phật ý so với đức Phật) và phù đồ trong văn hoá dân gian là bằng chứng cho thấy dạng cổ Bụt khó có thể đào thải tuy sức ép của tiếng Hán rất là nặng nề qua bao ngàn năm đô hộ và đồng hoá. Nếu Bột 勃 và Bột Đà 勃 陀 được dùng trong vốn từ tiếng Hán14 (thay vì Phật hay Phật Đà) cho đến ngày nay thì nguồn gốc Bụt hay Phật không khó giải quyết, nhưng chính vì các biến âm của dạng Phật (xem bảng liệt kê cuối bài) mà ta có thể đặt lại vấn đề. Cách dùng Bụt như Bồ Tát (hiền/lành như Bụt) trong tiếng Việt đã duy trì nghĩa nguyên thuỷ của bồ (bodh- âm Phạn, trí tuệ – một dạng của budh- biết/hiểu giác ngộ) trong các dạng phiên âm Bồ Tát 菩薩, bồ đề 菩提. Trong các tài liệu chữ Hán ta còn thấy Phật giáo xưa kia từng gọi là phù đồ đạo 浮 屠 道, chứ không thấy vết tích của cụm từ Phật Đà giáo hay Bột đà giáo và trở thành Phật giáo. Người Hán dùng bồ chỉ là phiên âm trực tiếp (transliteration) chứ không hiểu là các dạng bồ bột Bụt Phật đều cùng một gốc! Khuynh hướng biến âm rất tự nhiên theo dòng thời gian (lịch đại) làm cho ta rất khó nhận ra nguồn gốc các âm trên : đến ngay cao đệ của Pháp Sư Huyền Trang là Khuy Cơ còn nhận xét rằng ‘Phạn văn Bột Ðà, ngọa lược vân Phật’.
– sự có mặt của chữ Bụt dùng bột khá rõ nét trong các tài liệu chữ Nôm xưa như Phú Dạy Con (Mạc Đỉnh Chi 1280-1350), Cư Trần Lạc Đạo (vua Trần Nhân Tông 1258 – 1308), Vịnh Vân Yên Tự (Hoà Thượng Huyền Quang, 1300) … Cho tới thời tự điển Việt Bồ La (Alexandre de Rhodes, 1651) vẫn còn thông dụng như chữ Phật, nhưng càng ngày càng ít dùng đi và thay bằng chữ Phật. Điều này cho ta cơ sở đặt ra giả thuyết Bụt đã từng được dùng (phổ thông) ở Việt Nam thời đầu công nguyên. Ảnh hưởng sâu đậm về sau từ văn hoá ngôn ngữ Hán (nhất là từ thời Đường Tống phản ánh qua âm trung cổ Phật còn duy trì trong tiếng Việt) làm mờ nhạt tuy không thể nào xoá hẳn (dù vô tình hay cố ý) các vết tích và đóng góp của phương Nam vào văn hoá Cổ Á Đông mà ít người ý thức được.
– quan trọng hơn cả là biến âm b > ph như đã ghi nhận bên trên, và do đó có khả năng buddha nhập vào tiếng Việt (Cổ) thành *bud- trước, sau đó nhập vào tiếng Hán thành Bột, Bật và Phất, Phật (âm Hán Trung Cổ). Âm Phật lại nhập ngược vào tiếng Việt có hệ thống từ thời Đường Tống cũng như đa số các tiếng Hán Việt khác : quá trình nhập ngược (back-loan) này tương tự như tên gọi 12 con giáp tuy xẩy ra trễ hơn. Cư sĩ Tâm Hà Lê Công Đa cũng từng viết về khả năng Phật giáo đến Việt Nam trước (chứ không phải từ Trung Quốc qua) – xem chi tiết bài viết trên mạng http://www.daophatngaynay.com/english/vietnam/country/005-VietnameseBuddhism.htm ; Học giả Lê Mạnh Thát cũng đề nghị Phật giáo đã đến Việt Nam khoảng thế kỷ thứ III hay thế kỷ thứ II trước công nguyên – xem thêm tài liệu trên mạng http://www.thuvienhoasen.org/u-lspgvn1.htm ; Tác giả Nguyễn Lang thì cho rằng khoảng đầu công nguyên thì Phật giáo đến Việt Nam (trung tâm Luy Lâu) – xem chi tiết trên mạng http://www.thuvienhoasen.org/vnphatgiaosuluan1-01.htm . Xem thêm tóm tắt về lịch sử Phật Giáo Việt Nam trên mạng http://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_%C4%91%E1%BA%A1o_Ph%E1%BA%ADt_Vi%E1%BB%87t_Nam
Các giả thuyết trên về Phật, Phật Đà và Bụt là những đề tài rất lý thú cần được nghiên cứu cẩn thận và nhiều dữ kiện (xuất thổ)15 để thêm sức thuyết phục; Chúng nằm ngoài phạm vi của bài viết (phần 1) này. Điều cho ta thấy rõ ràng là từ các dữ kiện trên, Bụt là dạng cổ (có trước) hơn Phật (âm Hán trung cổ) tuy cùng một gốc tiếng Phạn, rất phù hợp với quá trình biến âm tự nhiên của ngôn ngữ.
Các con đường truyền bá của Phật giáo (trích từ vi.wkipedia)
|
5. Phụ chú và phê bình thêm
Để dễ cảm nhận các ý từ bài viết nhỏ này hơn, người đọc nên xem các bài viết sau đây, xem phần phụ chú này cho các tài liệu đã trích dẫn
– “Từ Buddha đến Bụt và Phật” tác giả Huỳnh Ngọc Chiến12
– “Bụt hay Phật” tác giả Phạm Mạnh Lương – Tạp Chí “Thế kỷ 21” số 129 (1/2000)
– “Bụt hay Phật” tác giả Nguyễn Trọng Phu – Tạp Chí “Thế kỷ 21” số 123 (7/1999)
– “Danh Từ Bụt” – Sư Cô Chơn Không (Lá Thư Làng Mai Số 25 12/2/2002) – đăng trên mạng Thư Viện Phật Giáo Hoa Sen
– Hoa Vô ưu (tập 9) “Ông Phật hay ông Bụt” (Hoà Thượng thích Thanh Từ, 2002)
– “Phật” trên mạng vi.wikipedia địa chỉ http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%ADt
– Chử Đồng Tử, một trong Tứ Bất Tử, học đạo với sư Phật Quang, đọc thêm chi tiết trên mạng
http://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%AD_%C4%90%E1%BB%93ng_T%E1%BB%AD hàm ý là đạo Phật đã có mặt tại Việt Nam thời vua Hùng
Một điểm đáng chú ý khi dùng các dạng phiên âm (như từ tiếng Phạn) hay từ cổ trong kinh điển là khuynh hướng dùng tiếng địa phương hay ở thời đại khác để chỉ tên riêng (vì ngày nay không hiểu nghĩa nguyên thuỷ, phạm trù nghĩa thay đổi) : thí dụ như Phật Đà (Buddha) thật ra có nghĩa là người đã hiểu, biết hay tỉnh ngộ – Bụt theo tự điển Việt Bồ La (1651) là chùa, tượng Phật; Phù đồ còn có nghĩa là tháp (Tây Vực Ký) ; Volga (tiếng Nga Волга) có nghĩa nguyên thuỷ (Slavic) là ẩm ướt và đã trở thành tên sông dài nhất ở Âu Châu, Mường có nghĩa là làng hay khu vực sinh sống mà bây giờ chỉ dân tộc Mường …v.v…
1) từ thời đại tiến bộ và văn minh hơn, nhiều tài liệu (sách vở, phương tiện truyền thông) về ngôn ngữ trở nên phong phú và chính xác hơn … Nên khả năng phân tách dữ kiện thâu nhận khách quan hơn so với trước đây : Ngôn Ngữ Học thường là một phần của Văn Học, Triết Học …
2) trích từ cuốn “An Introduction to Historical Linguistics” tác giả Terry Crowley – University of Papua New Guinea Press (1987). Định luật Grimm giải thích rất nhiều trường hợp tương ứng giữa các ngôn ngữ La Tinh, Hy Lạp, Anh, Pháp … Nhưng có một số ít trường hợp trong nhánh Germanic phụ âm t lại không tuân theo luật t > θ (vô thanh) mà lại thành ra d (hữu thanh) như
pater (cha, tiếng La Tinh) fadar (cha, tiếng Gothic) father (cha, tiếng Anh)
cutis (da thú, tiếng La Tinh) hide (tiếng Anh) Haut (tiếng Đức)
…v.v…
Karl Verner (1875) đã bổ túc cho luật Grimm thêm hoàn hảo với nhận xét là các phụ âm vô thanh như p, t, k, s có thể biến thành phụ âm hữu thanh b, d, g, z/r nếu nguyên âm đi trước chúng là trọng âm (stressed vowels). Từ đó ta có thêm định luật Verner (Verner’s law, Second Consonant Shift) về biến âm trong ngữ hệ Ấn Âu. Khả năng thuyết phục của các định luật âm thanh này cao đến nỗi trong ngôn ngữ học còn lưu truyền câu nói ‘luật âm thanh không có ngoại lệ’ (sound laws are without exceptions/die Ausnahmslosigkeit der Lautgesetze). Các luật âm thanh Grimm và Verner đều có thể giải thích được dạng budh- Phạn so với bụt và Phật và fó fú bó BK (giọng BK Ngô có khuynh hướng bỏ mất phụ âm cuối) thuộc ngữ hệ Nam Á và Hán Tạng. Học giả Arne Østmoe đã từng nêu ra nhận xét là luật Grimm có thể đã hiện diện trong một số chữ Thái (Cổ, proto Tai-Kadai) mượn từ tiếng Germanic, cũng như qua tiếng Hán (Cổ) – xem bài viết “A germanic-Tai Linguistic Puzzle” của Arne Østmoe trong tập Sino-Platonic Papers, 64 (January 1995).
3) mức độ phổ thông của thành ngữ này phản ánh qua cách dùng trong tiếng Việt : ngay cả một người không biết chữ (chưa kể đến việc biết chữ Hán, Nôm …) mà vẫn thấy dùng thành ngữ khẩu Phật tâm xà này rất là ‘chuẩn’
4) theo “Tự Điển Đồng Nguyên Việt & Đông Nam Á” Nguyễn Hy Vọng (California, 2006)
5) còn có nghĩa là giống như, tự(a) hồ (as if, be alike) trong tiếng Hán – tiếng Việt không ai nói “cô ấy làm việc phảng phất như không biết mệt”. Ngoài ra âm cổ của Phật 佛thường được ghi nhận trong các tự điển Trung (Hoa) là
古代音韻與現代拼音對照 Cổ đại âm vận dữ hiện đại bính âm đối chiếu
[ 廣 韻 ] 符弗切,入8物,fú,臻合三入文並 [ Quảng Vận ] phù phất thiết , nhập 8 vật ,fú, trăn hiệp tam nhập văn tịnh [ 平水韻 ] 入聲四質·入聲五物 [ Bình thủy vận ] nhập thanh tứ chất _ nhập thanh ngũ vật [ 唐 音 ] bhiət [ Đường âm ] bhi?t – để ý âm thời Đường có dạng *biêt (so với biết tiếng Việt) [ 國 語 ] fó,fú [ Quốc ngữ/BK ] fó,fú [ 粵 語 ] bat6fat1fat6 [ Việt ngữ ] bat6fat1fat6 [ 閩南語 ] hut8,put8 [ Mân Nam ngữ ] hut8,put8trích từ http://tool.httpcn.com/Html/KangXi/21/PWAZKOCQUYILFUYB.shtml ]
Các cách viết cổ (dị thể) của chữ Phật – trích từ tự điển dị thể trên mạng
http://dict.variants.moe.edu.tw/eng.htm
…v.v…
Chữ Phật 佛 này là phổ thông nhất trong các cách viết với tần số dùng là 108885 trên 434717750 (so với chữ nhất 一 rất thông dụng với tần số dùng là 6336632 trên 434717750).
6) trích “Từ Điển Phật Học Hán Việt” NXB Khoa Học Xã Hội – Hà Nội (1998). Chỉ có một cụm từ bud-dha बुद्ध của tiếng Phạn mà ta có các dạng phiên âm và phiên nghĩa liên hệ như liệt kê dưới đây (xem thêm chi tiết từ các trang mạng http://www.acmuller.net/soothill/soothill-hodous.html hay http://zh.wikipedia.org/wiki/%E4%BD%9B )
Bộ Đa 部多
Bộ Đà 部陀
Bột Đà 勃 陀/勃 馱/馞 陀
Bộ Tha 步 他
Hưu Đồ 休 屠
Mẫu Đà 母 陀
Một Đà 沒 馱/没陀
Phật Đà 佛陀/佛 馱
Mẫu đà 母陀
Phật 佛
Yêu 仸
Phật Đồ 佛圖
Phí Đà 沸 馱
Phù Đà 浮 陀
Phù Đầu 浮 頭
Phù Đồ 浮 屠/浮 圖
Phù Tháp 浮 塔
Phục Đậu 復豆
Vật Tha 物 他
Vô Đà 毋陀
Giác giả 覺 者
Giác ngộ giả 覺悟者
…v.v…
Đấy là không kể các từ phiên âm từ tiếng Phạn khác như Già Phạm (Bà Già Phạm, một trong các danh hiệu của đức Phật) … Hay các dạng dịch nghĩa như Giác Hoàng, Giác Vương, Nhân Vương, Ngưu Vương, Tri Giả, Giác, Trí … Hay những tên gọi khác của Phật như Như Lai, Đại Giác …v.v…
Các dạng phiên âm trên đều tuân theo định luật vật lý (âm thanh) nhất định như b/ph-v-m (phụ âm đầu) chứ không phải là ngẫu nhiên thành hình! Bảng tóm tắt trên giải thích được phần nào hiện tượng vốn từ Hán tăng vọt khi tiếng Phạn (qua kinh Phật, đạo Phật) nhập vào văn hoá Trung Quốc. Ngoài ra các cách phiên âm tiếng Phạn buddha như trên còn phản ánh các cách đọc địa phương (yếu tố không gian/địa lý) và sự thay đổi về cách đọc qua những thời đại (yếu tố thời gian).
Chữ già 伽 cũng dùng để chỉ Phật đặc biệt trong tiếng Nhật – có thể đây là trường hợp mở rộng nghĩa của các dạng phiên âm tiếng Phạn như tăng già, già lam, na già … Còn một chữ nữa để chỉ Phật là yêu 仸 (jiu2 giọng Quảng Đông, yao3 giọng Bắc Kinh bây giờ – 於兆切,音夭 ư triệu thiết, âm yêu – theo Quảng Vận, Tập Vận – trích Khang Hy – yêu còn cách đọc nữa là fó BK hay PHẬT) : đây cũng là một trong nhiều dị thể của chữ Phật như 仏 (xem bảng các chữ dị thể của chữ Phật ở trên). Yêu mang nghĩa tiêu cực như yếu đuối, méo mó, cong vẹo …v.v… Có thể yêu/Phật 仸 là dạng phiên âm Bụt của Mân Việt (gồm các giọng Triều Châu/Tiều hay một phần ở Quảng Đông, một phần Hải Nam, Đài Loan); Giọng Mân Việt có khuynh hướng hầu hoá (âm b/p thành h) nên Bụt trở thành hut8 – hay đọc như húc 旭 hiok8 (Triều Châu). Theo Ngọc Thiên 玉篇 thì 仸 : 乙 小 切, 旭 也 ất tiểu thiết, húc dã … Cách dùng chữ húc cũng có cơ sở giải thích dựa vào phạm trù nghĩa của húc : ánh sáng mặt trời khi mới ló dạng (chỉ đức Phật hay đấng giác ngộ, hết vô minh …). Các dạng đọc phương Nam như Bụt Bột Hut8 … đều bị đào thải để thay bằng âm Phật (fó BK). Chữ yêu 仸 (Phật) có mặt trong Phật Thuyết Đại Báo Ân Trọng Kinh, Phan Trần truyện, Thiên Nam Ngữ Lục … cho đến thời Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân Hương. Theo ý kiến bạn Nguyên.Ng trên diễn đàn Viện Việt Học (10/8/2009) thì yêu仸có thể là một dạng phiên âm của Gautama hay Kiều Đáp Ma 喬答摩 giản thể 乔答摩. Để ý kiều 嬌 có nghĩa là mềm mại (so với ẻo lả, yêu/yểu仸). Nguồn gốc chữ này và tại sao lại hiện diện rất sớm trong giai đoạn hình thành chữ Nôm rất đáng chú ý và cần được nghiên cứu thêm để soi sáng quá trình cấu tạo chữ Nôm cũng như đóng góp của phương Nam vào vốn từ Hán (Cổ).
7) GS Nguyễn Tài Cẩn ghi nhận biến âm b > ph trong cuốn “Một số vấn đề chữ Nôm” trang 99, 104 … NXB Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp (Hà Nội – 1986); Trong cuốn “Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt” trang 137, 178 … NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội (bản in 2004).
8) GS Lê Văn Quán ghi nhận biến âm b > ph, và còn khẳng định buồm là âm cổ của phàm 帆mà ta không biết (tưởng đọc theo nghĩa)… trong cuốn “Nghiên cứu về chữ Nôm” trang 110 … NXB Khoa Học Xã Hội (Hà Nội 1981).
9) phạm/phạn 梵 nghĩa nguyên thuỷ là cây cỏ sinh tươi (phồn thịnh). Từ thời đạo Phật nhập vào Trung Quốc thì nghĩa này bị đào thải và đổi thành tên nước Ấn Độ, Phật giáo, thanh tịnh, tụng (niệm Phật) … Tương tự như trường hợp chữ Phật, nghĩa nguyên thuỷ đã mất đi sau khi được dùng làm ký âm tiếng Phạn. Bồ 菩nghĩa nguyên thuỷ là một loài cỏ (Thuyết Văn Giải Tự), được dùng để phiên âm trong kinh Phật; Thí dụ như Bồ tát 菩薩 là tên viết tắt của Bồ-đề-tát-đóa 菩薩薩埵 (phiên âm tiếng Phạn bodhisattva बोधिसत्त्व). Phật 佛nghĩa nguyên thuỷ là giúp, phụ (như bật 弼, trích “Từ Nguyên”, Bắc Kinh, NXB Thương Vụ Ấn Thư Quán, 2004), nhưng từ khi Phật giáo nhập vào Trung Quốc thì chữ này được dùng để ký âm Phật (Đà) và nghĩa cổ hơn từ từ đào thải đồng thời với sự bành trướng của đạo Phật.
10) Thời Đông Hán, hai âm phóng và phòng đọc giống nhau (giống âm phương) – như Hứa Thận đã ghi nhận trong Thuyết Văn Giải Tự
Phòng 室在旁也從戶方聲 Thất tại bàng dã tòng hộ phương thanh
Phóng 逐也從攴方聲 Trục dã tòng phốc/phác phương thanh
11) Bể (biển) là một trường hợp cho thấy âm trung cổ vẫn còn duy trì phụ âm môi tắc b/p nhưng khi nhập vào tiếng Việt thì theo khuynh hướng trở thành ph- . Bể là âm cổ hơn so với pha HV陂(theo HV Tự Điển của Nguyễn Văn Khôn, Thiều Chửu ghi thêm các dạng bi, bí). Âm trung cổ của pha là [Đường Vận ] bỉ vi thiết [ Tập Vận ] [ Vận Hội ] ban mi thiết [ Chánh Vận ] bô my thiết; Các giọng BK, Ngô, Hẹ, Quảng Đông … vẫn duy trì phụ âm đầu b/p; Chỉ có âm HV là pha và âm (Hán) Hàn là phi, âm (Hán) Nhật là ha, hi (hầu hoá). Pha còn cho ra dạng phá và trở thành bất tử qua ca dao
Thương em anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang
Bình 平 (píng BK) có các cách đọc trung cổ
[ Đường Vận ] phù binh thiết [ Tập Vận ] [ Vận Hội ] bồ binh thiết [ Chánh Vận ] bồ minh thiết : âm bình … [ Vận Hội ] bì mệnh thiết , âm bệnh (音病). Các giọng BK, Ngô, Hẹ, Quảng Đông … vẫn duy trì phụ âm đầu p; Các biến âm của bình là bằng, phẳng (b>ph) cũng như âm (Hán) Hàn phyeng, âm (Hán) Nhật đã hầu hoá thành hei, hyou (nhưng đôi lúc vẫn còn dùng dạng ben) – tiếng Thái vẫn duy trì phụ âm đầu môi tắc hữu thanh b qua dạng baen แบน . Tác giả Axel Schuessler trong “ABC Etymological Dictionary of Old Chinese” (2007) phục nguyên âm thượng cổ của bình là *breng so với một dạng cổ khác là *bieng [ 上古音 ]:耕部并母, bienghttp://tool.httpcn.com/Html/KangXi/25/PWILCQMERNUYEMEKO.shtml ]
Cách dùng từ ghép bằng phẳng, buồn phiền, bè phái … đáng chú ý vì thứ tự chữ (chính trước phụ sau) cũng là cánh cửa hé mở cho thấy phụ âm b- hiện diện trước phụ âm ph- (không nghe ai nói phẳng bằng, phái bè hay phiền buồn cả)
Các dữ kiện này cũng chứng tỏ tương quan b-ph và chiều biến âm từ phụ âm b- thành ra phụ âm ph-
12) Bài viết “Từ Buddha đến Bụt và Phật” của tác giả Huỳnh Ngọc Chiến đăng trên mạng talawas (25/7/2008) ghi lại nguồn tài liệu “Phật giáo học thuật luận văn tập” tác giả Quý Tiến Lâm, NXB Đông Sơ xuất bản xã, Đài Bắc (1996). Hồi Hột là tên gọi một nước (616-840) ở phía bắc Trung Quốc, giúp nhà Đường giẹp loạn An Lộc Sơn … Hồi Hột 回紇 chỉ là một tên gọi (chủng tộc Urghur) trong nhiều tên gọi khác như Hồi Cốt, Ô Hộ, Ô Hột, Vị Hột, Dụ Cố, Đinh Linh, Thiết (Sắt) Lặc, Viên Hột, Uý Ngột Nhi Đẳng, Đuy Ngô Nhĩ …v.v… Các học giả TQ thường có ‘khuynh hướng’ khảo sát nguồn gốc tên Phật, 12 con giáp … từ phương tây (thạch động Đôn Hoàng) hay phương bắc (Hồi Hột) vì nhiều lý do!
13) Bài viết bằng tiếng Anh chứng minh từ đơn tiết Phật và song tiết Phật Đà nhập vào Trung Quốc qua các ngã khác nhau, dựa vào tài liệu lịch sử và kinh Phật; Chủ đề bài viết là “On the oldest Chinese transliterations of the name Buddha”
14) Bột 勃 đọc là bó, bèi (giọng BK), but6 (giọng Quảng Đông), put8 (Hẹ, Đài Loan), pud8 [ khách ngữ bính âm tự vị ] … So với âm (Hán) Hàn pal, âm (Hán) Nhật bitsu, hotsu. Bột nghĩa là chợt, thốt nhiên, đột nhiên, bừng lên … ‘Bất thình lình’, ‘bất chợt’ – theo thiển ý bất là một dạng biến âm của bột; Không phải ngẫu nhiên mà hốt 忽 (âm vật) cũng có nghĩa là bất chợt. Bồng bột nghĩa nguyên thuỷ là bừng lên (lên ùn ùn, bừng lên rực rỡ xanh tươi) nhưng tiếng Việt hiện tại lại mang nghĩa hơi khác (làm việc không suy nghĩ cẩn thận).
15) như tháp tưởng niệm hai vị sư Sona và Uttara (vua A Dục/Asoka अशोक gởi đi hoằng pháp, thế kỷ thứ III trước công nguyên) ở Hải Phòng; Bia Võ Cảnh viết bằng chữ Phạn ở Nha Trang (thế kỷ thứ II); Các di tích tìm thấy ở Óc Eo, Sa Huỳnh … đều cho ta kết luận rằng lãnh thổ Việt Nam đã từng là khu vực nhộn nhịp giao thương với Ấn Độ vào thời Hán.
Bụt hay Phật? (phần 2)
(Ảnh hưởng phương Nam trong ngôn ngữ văn hoá Hán)
Nguyễn Cung Thông
nguyencungthong@yahoo.com
Bài viết “Bụt hay Phật?” phần 1 giới thiệu khung cảnh tổng quát về cách dùng các từ Bụt và Phật trong các ngôn ngữ Đông Nam Á. Ta có cơ sở rất vững chắc để kết luận rằng Bụt là dạng âm (thượng) cổ của Phật; Phật là âm Hán trung cổ nhập ngược (back-loan) vào tiếng Việt có hệ thống cũng như đa số các từ Hán Việt khác. Các dạng (cổ) phục nguyên của âm Phật Hán Việt hay fú Bắc Kinh đều rất gần dạng *put hay *but : như theo các GS Axel Schuessler (“ABC Etymological Dictionary of Old Chinese” 2007), William Baxter (*pjut, 1992), E. G. Pulleyblank (EMC, 1991), W. South Coblin (ONWC) … Phần này đi sâu vào nguồn gốc và cách dùng chữ Phật và đưa ra các dữ kiện ngôn ngữ dẫn đến khả năng từ Bụt đã nhập vào tiếng Hán (cổ) từ phương Nam và do đó từ Phật là kết quả nhập ngược lại cũng như tên gọi 12 con giáp chẳng hạn. Nên nhắc lại ở đây là khả năng ký âm (chỉ là gần đúng) của tiếng Hán, như phất 弗 dùng để ghi âm Phạn Sariputra शारिपुत्र (Phạn Nam/Pali là Sariputta, Phất/putra nghĩa tiếng Phạn là con trai) Xá Lị Phất 舍利弗 cũng như Buddha बुद्ध là Phật Đà佛陀. Gần đây hơn là cụm từ Phật Lăng : phiên âm (đơn âm hoá) từ đồng Franc của Pháp – so với cách phiên âm của Trung Quốc là Pháp Lang 法郎. Vì ảnh hưởng của các tài liệu rất phong phú bằng chữ Hán, cũng như từ khi văn hoá Trung Quốc khởi sắc từ thời Tần Hán … Đường Tống, ảnh hưởng phương Bắc rất đậm nét trong ngôn ngữ văn hoá Việt Nam và làm ảnh hưởng của phương Nam càng ngày càng lu mờ dần, dù vô tình hay cố ý. Tuy nhiên, vết tích của ngôn ngữ phương Nam không vì thế mà biến mất hoàn toàn, vấn đề là ta phải chịu khó tìm kiếm và gạn lọc các dữ kiện này – hiện tượng ‘nghịch lý’ này hàm chứa phần nào trong ca dao tục ngữ như
Ngàn năm bia đá thì mòn
Trăm năm bia miệng vẫn còn trơ trơ
Chúng ta hãy xem qua vết tích của Bụt hay Phật trong văn hoá dân gian, rồi đi vào chi tiết qua các dữ kiện ngôn ngữ cho thấy khả năng của từ Bụt có thể đã xuất phát ở phương Nam, sau đó du nhập Trung Quốc vào thời bình minh của đạo Phật. Dù biết rằng y nghĩa bất y ngữ, và không chẳng khác sắc, sắc tức là không – phần này ghi nhận vài suy nghĩ (chấp ngã) về hiện tượng Bụt-Phật trong tiếng Việt – cho thấy đóng góp của tổ tiên ta vào văn hoá tín ngưỡng Á Đông mà ít người nhận ra. Nhìn về quá khứ, hình ảnh của đức Phật luôn ẩn hiện trong kho tàng truyện (cổ) dân gian Việt Nam như
1. Tấm Cám
Tấm1 mồ côi cha, ở chung với dì ghẻ và bị con riêng là Cám cùng bà bạc đãi. Nhờ Bụt giúp nên Tấm đã vượt qua nhiều chướng ngại để trở thành hoàng hậu, dù trải qua bao nhiêu kiếp (mắm, chim vàng anh, cây xoan đào, cái khung cửi, cây thị) nhưng về sau vẫn chung sống hạnh phúc bên vua. Hai mẹ con Cám phải lãnh hậu quả tàn khốc là chết trong đau khổ …v.v…
2. Chử Đồng Tử
Chử Đồng Tử2 chịu bao khổ cực trong đời sống để rồi về sau lấy được công chúa Tiên Dung của vua Hùng đời thứ ba. Trong lúc giàu sang, Chử Đồng Tử đã tìm tới đạo Phật (sư Phật Quang) và cùng vợ giác ngộ bỏ việc mua bán …
3. Man Nương Phật Mẫu theo học đạo với sư Khâu Đà La (cùng đến Luy Lâu với sư Ma Ha Kỳ Vực, nhưng ở lại chứ không đi Trung Quốc), về sau được phép thần thông cứu đời độ thế. Quan thái thú Sĩ Nhiếp rất nể sợ và cho tạc tượng Tứ Pháp là Pháp Vân – Pháp Vũ – Pháp Lôi – Pháp Điện tượng trưng cho Mây, Mưa, Sấm, Chớp để thờ. Bốn pho tượng Tứ Pháp được thờ ở bốn chùa Dâu, Đậu, Tướng, Dàn ở Thuận Thành, Bắc Ninh … Xem thêm chi tiết trang http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%ADt_M%E1%BA%ABu_Man_N%C6%B0%C6%A1ng
4. Truyện Kiều
Có lẽ không có một tác phẩm nào lại có nhiều phê bình và tranh luận như truyện Kiều; Điều rõ nét nhất là ảnh hưởng của Phật giáo trong truyện Kiều : ác giả ác báo vậy (thuyết nhân quả). Tại sao Kim Vân Kiều truyện của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân nhà Thanh, nguồn chính chữ Hán của truyện Kiều, không phổ thông ở Trung Quốc mà lại rất được ưa chuộng bằng chữ Nôm ở Việt Nam? Tại sao lại có tục bói Kiều? … Có thể nói lên điều gì về ảnh hưởng của Phật giáo trong tiềm thức của dân tộc Việt Nam chăng? Đây là những vấn đề thú vị không nằm trong phạm vi phần này. Dù có trải qua một cuộc bể dâu, hình ảnh Bụt vẫn ‘hiện’ ra lúc cần thiết để cứu độ chúng sinh, lòng Bụt luôn mở rộng để xoa dịu các nỗi khổ đau khắc nghiệt trong cuộc sống
Rỉ tai mới kể sự lòng
Ở đây cửa Phật là không hẹp gì (Kiều, câu 2075, 2076)
…v.v…
Không những hiện diện trong truyền thuyết dân gian, như vài thí dụ ở trên, Phật giáo đã có mặt ở Việt Nam vào đầu công nguyên như ghi nhận trong các tài liệu còn để lại.
5. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (phần Ngoại Kỷ) thì
” …Anh em ông (Sĩ Nhiếp) làm quan coi quận, hùng trưởng một châu, ở lánh ngoài muôn dặm, uy tín không ai hơn. Khi ra vào thì đánh chuông khánh, uy nghi đủ hết; kèn sáo thổi vang, xe ngựa đầy đường, người Hồ (Thiên Trúc, Ấn Độ) đi sát bánh xe để đốt hương thường có đến mấy mươi người; vợ cả, vợ lẽ đi xe che kín, bọn con em cưỡi ngựa dẫn quân theo hầu, người đương thời ai cũng quý trọng, các man di đều sợ phục, dẫu Úy Đà (Triệu Đà) cũng không hơn được …”. Rõ ràng cho thấy vào thế kỷ II đã có nhiều giao lưu với tăng sĩ Ấn Độ và chắc chắn phải để lại những vết tích trong ngôn ngữ qua quá trình truyền bá đạo Phật.
6. Theo Thiền Uyển Tập Anh, ghi lời bàn của quốc sư Thông Biện dẫn lời sư Đàm Thiên (542-607) :
“Một phương Giao Châu, đường thông Thiên Trúc, Phật pháp lúc mới tới, thì Giang Đông chưa có, mà Luy Lâu lại dựng chùa hơn hai mươi ngôi, độ Tăng hơn 500 người, dịch kinh 15 quyển, vì nó có trước vậy. Vào lúc ấy, thì đã có Khâu ni danh, Ma Ha Kỳ Vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Bác tại đó. Nay lại có Pháp Hiển thượng sĩ, đắc pháp với Tì-ni-đa-lưu-chi, truyền tông phái của tam tố, là người trong làng Bồ-Tát, đang ở chùa Chúng Thiện dạy dỗ học trò. Trong lớp học đó không dưới 300 người, cùng với Trung Quốc không khác. Bệ hạ là cha lành của thiên hạ, muốn bố thí một cách bình đẳng, thì chỉ riêng khiến sứ đưa Xá lợi đến, vì nơi ấy đã có người, không cần đến dạy dỗ.”
Năm 189 CN: Lý Hoặc Luận, tác phẩm về đạo Phật bằng chữ Hán đầu tiên được Mâu Tử viết tại Giao Chỉ …
Năm 247 CN: Khương Tăng Hội là thiền sư người Việt đầu tiên sang Đông Ngô truyền đạo …v.v… Người đọc có thể xem thêm chi tiết trong “Việt Nam Phật Giáo Sử Luận”, tác giả Nguyễn Lang trên http://cusi.free.fr/lsp/suluan/vnpgsuluan1-3.html hay “Tổng Hợp Phật Giáo Việt Nam”, tác giả Lê Mạnh Thát trên mạng http://www.thuvienhoasen.org/vanhocpgvn-1-05-3.htm hay “Phật Học Tinh Hoa” Thích Đức Nhuận – NXB Phật Học Viện Quốc Tế – California (1983), “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” Nguyễn Tài Thư (Chủ biên) – NXB Khoa Học Xã Hội (Hà Nội, 1991), hay “Phật Giáo tại Việt Nam” Thích Nguyên Tạng trên mạng http://www.daophatngaynay.com/viet/pgvn/su/001-pgvn1.htm …v.v…
Tham khảo các chi tiết trên về Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam trên mạng http://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_Ph%E1%BA%ADt_gi%C3%A1o_Vi%E1%BB%87t_Nam
Các lý luận về khả năng đạo Phật nguyên thuỷ tới Việt Nam từ đường biển (không phải từ TQ) đã được bàn luận khá chi tiết trong các tài liệu trên, do đó phần này chỉ chú trọng đến ngôn ngữ qua hiện tượng Bụt Phật mà thôi.
|
Các con đường truyền bá của Phật giáo (trích từ vi.wkipedia)
Theo tác giả Tâm Hà Lê Công Đa3 thì thời vua A Dục/Asoka अशोक (thế kỷ III TCN) đã có tăng sĩ đến Việt Nam truyền đạo; Nay tại Hải Phòng còn tháp ghi lại sự tích này. Các học giả Trung Quốc cũng đã đặt vấn đề về các con đường truyền bá đạo Phật, như có thể từ đường biển như trong tạp chí Lịch Sử Nghiên Cứu 1995 (2) : 20-39, hai học giả Ngô Đình Cầu 吴廷璆 và Trịnh Bành Niên 鄭彭 年 đưa ra các bằng chứng để đi đến kết luận rằng đạo Phật nguyên thuỷ đến Trung quốc bằng đường biển qua bài viết “Phật giáo hải thượng truyền nhập Trung Quốc chi nghiên cứu“; Tóm tắt lý luận của hai học giả này là (a) đường biển đã có nhiều hoạt động truyền bá đạo Phật trước đường bộ (b) các hình tượng, đồ vật (liên hệ đến đạo Phật) khai quật ở nam Trung Quốc và các vùng biển tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây có niên đại rất sớm so với ở các vùng phía tây TQ (c) cách dùng cụm từ Phù Đồ, phiên âm tiếng Phạn Buddha, có tính chất địa phương so với từ đơn tiết Phật (d) ảnh hưởng rõ nét của môn phái Nam Tông/Hinayana (còn gọi là Phật giáo nguyên thuỷ) so với Bắc Tông (Đại Thừa/Mahayana) đến từ đường bộ qua Trung Á (e) các tài liệu khả tín cho thấy đạo Phật truyền qua đường bộ Trung Á xẩy ra sau khi các trung tâm truyền bá đạo Phật như Lạc Dương đã phát triển mạnh mẽ … Học giả Quý Tiễn Lâm季羨林 trong bài viết “Phật Đồ dữ Phật” (1957) cũng phân tách các cách dùng từ phiên âm song tiết Phật Đồ và Phật từ các ngã đường nhập vào Trung quốc rất khác nhau để cho rằng từ đơn tiết Phật đến từ ngôn ngữ Hồi Hột (Urghur) như đã nhắc đến trong phần 1. Xem các chi tiết tranh luận trong bài viết của Rong Xinjiang
http://www.sino-platonic.org/complete/spp144_han_dynasty_buddhism.pdf . Nhưng có thể Phật đến Trung Quốc từ phương Nam thay vì phương Tây (Trung Á) hay phương Đông như trên?
7. Vết tích trong ngôn ngữ
Lướt qua các truyền thuyết và lịch sử Phật giáo ở Việt Nam, một điều rõ nét là đạo Phật đã hiện diện ít nhất là từ đầu công nguyên. Như vậy chắc phải để lại vài vết tích nào đó trong ngôn ngữ chúng ta? Hãy nhìn lại vốn từ căn bản của tiếng Việt, hay cụ thể hơn là các từ diễn tả những hoạt động nông nghiệp cổ truyền của dân ta : trong đó phải có hoạt động bó hay bọc (lúa, rạ) lại. Các động từ trói, cột, quấn, buộc, bọc … đều có một mục đích như nhau là giữ đối tượng lại và không được tự do. Trong các dạng động từ trên thì buộc rất đáng chú ý. Các dạng buộc rất thường gặp trong ngôn ngữ Đông Nam Á như
Buộc (Việt); puôc (Mường Bi)4 : puôc lòng (buộc lòng), Nả phái puôc thỗi là ăn lỗm (nó bị buộc tội là ăn trộm); Laich mềm puôc chăt (lạt mềm buộc chặt)
Phục/pục (Nùng): pắt pục (bắt buộc)
โพก phohkF (tiếng Thái, buộc vải quanh đầu); pục, bục (Lào)
puôt (tiếng Môn); puột (Stiêng); puoth, kr-buôch, ch-buôch (Khme); Buôk (Aslian)5; bukkhì (Nahali); t-buk, p-buk, buôk (Chàm/Chăm); pyuôk (Wa); puk (Nicobar).
Phọc/phược Hán Việt 縛 (phồn thể) 缚 (giản thể): giọng Bắc Kinh/BK bây giờ là fú, giọng Quảng Đông :bok3 fok3 bok6 so với Đài Loan đọc là pak8 – các giọng khác là
客家話:[海陸豐腔] piok8 [客英字典] piok8 [台灣四縣腔] piok8 [梅縣腔] piok7 [客語拼音字彙] piog6 [東莞腔] bok7 [寶安腔] bong3
Khách Gia thoại :[ Hải Lục Phong Khang ] piok8 [ Khách Anh tự điển ] piok8 [Đài Loan Tứ Huyền Khang ] piok8 [ Mai Huyền Khang ] piok7 [ Khách ngữ bính âm tự vị ] piog6 [Đông Hoàn Khang ] bok7 [ Bảo An Khang ] bong3
Các từ trong tiếng Hán hiện đại dùng để chỉ buộc là hệ 系 (xì, jì BK), khổn 捆 (kun3 BK), kết 結 (jié BK), thuyên 拴 (shuan1 BK), trát 扎 hay 札 (za1 BK), bảng 綁 (bang3 BK) … chứ ít thấy dùng từ phọc hay phược縛 của phương Nam6. Một chữ hiếm gặp là phất 紼 nghĩa là dây thừng (để buộc quan tài) theo Thuyết Văn Giải Tự thì
亂系也。從糸弗聲 (Loạn hệ dã . Tòng mịch phất thanh)
Do đó phất 紼 đọc như Phật thời Hứa Thận (Đông Hán), và có nghĩa là dây nhợ … Ngọc Thiên còn ghi một dị thể của phất紼là 綍 rõ ràng cho thấy âm bột (Bụt). Ngoài ra, các chữ hiếm khác đọc như phật (phất) thời Đông Hán như phất 紱 (dây thao buộc ấn) còn viết là 韍; Phất 巿 (một bộ thủ riêng biệt trong Thuyết Văn Giải Tự) là dây đeo lưng cho quan phục, lễ phục thời xưa … đều có thể là vết tích của âm thượng cổ buộc. Có thể đây là các vết tích giao lưu ngôn ngữ thời cổ đại của dân tộc Việt và Hán – như trường hợp chữ Hán giang 江 là sông chẳng hạn, từng đọc là *kong (Thuyết Văn : 从水工聲 tùng thuỷ công thanh) so với dạng cổ phục nguyên của sông là *krong.
Chữ Bụt ghi bằng bột khá rõ nét trong các tài liệu chữ Nôm xưa như Phú Dạy Con (Mạc Đỉnh Chi 1280-1350), Cư Trần Lạc Đạo (vua Trần Nhân Tông 1258 – 1308), Vịnh Vân Yên Tự (Hoà Thượng Huyền Quang, 1300) … Cho tới thời tự điển Việt Bồ La (Alexandre de Rhodes, 1651) vẫn còn thông dụng như chữ Phật, nhưng càng ngày càng ít dùng đi và thay bằng chữ Phật (trích phần 1). Tam Thiên Tự và Ngũ Thiên Tự cũng dùng 孛 bột (Bụt) chỉ Phật, và liên hệ hai âm Bột phất đã có từ thời Xuân Thu (nghĩa là sao chổi, không liên hệ gì đến dây buộc)
(trích Khang Hy, khảo về chữ bột 孛)
[申須曰】彗,所以除舊布新也。或作茀,敷勿切 [Thân Tu viết] : tuệ, sơ dĩ trừ cựu bố tân dã . Dịch tác phất(Thân Tu hay Thân Nhu 申繻 là đại thần nước Lỗ)
Nhìn lại các cách phiên âm của Buddha (từ phần 1) : Bất Đắc 不得 , Bộ Đa 部多 , Bộ Đà 部陀 , Bột Đà 勃 陀/勃 馱/馞 陀 , Bộ Tha 步 他 , Hưu Đồ 休 屠 , Mẫu Đà 母 陀 , Một Đà 沒 馱/没陀 , Phật Đà 佛陀/佛 馱 , Mẫu đà 母陀 , Phật 佛 , Yêu 仸 , Phật Đồ 佛圖 , Phí Đà 沸 馱 , Phù Đà 浮 陀 , Phù Đầu 浮 頭 , Phù Đồ 浮 屠/浮 圖 , Phù Tháp 浮 塔 , Phục Đậu 復豆 , Vật Tha 物 他 , Vô Đà 毋陀 …; Ta thấy các dạng Hưu Đồ và Yêu là khác hẳn vì không có phụ âm đầu môi (môi môi hay môi răng). So với cách phát âm Bụt của Mân Việt (Hẹ, Triều Châu, Đài Loan) và Nhật, ta thấy có khuynh hướng hầu hoá (glottalisation) b/p > h ; Thành ra các dạng Hưu Đồ, Yêu (và hug8, hot-, hut8 …) chính là vết tích của các giọng địa phương6 hay cách đọc trại đi của âm Phạn Buddha. Trường hợp phiên âm khác nhau tuỳ địa phương xẩy ra gần đây với cách ký âm tên Tổng Thống Mỹ đương thời Barack Obama : Trung Hoa lục địa ghi là 奥巴马 / 奧巴馬 Àobāmǎ (Áo Ba Mã) so với Đài Loan ghi là 欧巴马 / 歐巴馬 Ōubāmǎ (Âu Ba Mã). Tóm lại, các dạng phiên âm trên bao gồm một số âm đọc địa phương (yếu tố không gian) kể cả một số âm cổ hơn của Phật (yếu tố thời gian). Theo thiển ý và dựa vào cấu trúc hài thanh (đa số) của chữ Hán như các chữ phiên âm Buddha (tiếng Phạn) trong tiếng Hán, cũng như tính chất phân bố của dạng buộc trong các ngôn ngữ phương Nam : ta có cơ sở để liên hệ âm Bụt đến tiếng Việt (Cổ) *biuk (buộc); Dạng này nhập vào tiếng Hán (Cổ) thành bất, bột … và sau này thành Phật (âm trung cổ) và nhập ngược vào tiếng Việt như đa số các từ Hán Việt khác. Nhưng tại sao có nhiều âm phù gần như Bụt như bộ, bột, phù … mà chỉ có dạng Phất 弗 là còn tồn tại? Theo cách diễn dịch chữ Phật 佛 của ngài Huyền Trang7 thì bộ nhân 人 chỉ người, phất 弗 là không, hàm ý Tánh Không (hay Không Tánh 空 性, dịch nghĩa tiếng Phạn Śūnyatā, शून्यता) của đạo Phật. Phật tổ ngộ được Tánh Không nên thành Phật. Nhưng theo người viết đã ghi nhận bên trên về thành phần hài thanh buộc – Bụt của phương Nam, ý nghĩa của chữ Phật 佛 có thể được hiểu như sau :
– Phật cũng là người như mọi người bình thường khác (phản ánh qua bộ nhân)
– con người luôn luôn chịu nhiều điều ràng BUỘC, phản ánh qua Khổ Đề (duh-kha दुःख) trong Tứ Diệu Đề, rõ nhất là Tam Phọc (ba điều ràng buộc, còn gọi là Tam Căn, Tam Độc, Tam Chướng …); Ý thức được các dây nhợ ràng buộc con người (Tập Đề) và tìm cách hay những con đường giải thoát (Diệt Đề, Đạo Đề) dẫn đến Bát Nhã (般若 dịch từ Phạn ngữ prajna प्रज्ञा) : đây chính là hạnh bồ đề (菩提 phiên âm Phạn ngữ bodhi बोधि) của bậc giác ngộ vậy. Người đã giải thoát khỏi các ràng buộc thì trở thành bậc A-La-Hán (阿羅漢: tiếng Phạn Arahant hay Arhat अर्हत्) – một khái niệm cốt lõi của Tiểu Thừa (Phật giáo nguyên thuỷ). Nếu không hiểu được chữ buộc đi kế con người (bộ nhân) thì ta vẫn còn trong giai đoạn vô minh (無明 dịch nghĩa tiếng Phạn avidya अविद्या), yếu tố đầu tiên trong 12 nhân duyên. Tóm lại, buộc có thể vừa là ký âm của Buddh- (vần đầu của Buddha) và vừa hàm ý rất sâu sắc của nhà Phật, một dấu ấn thâm thuý của tiếng Việt (Cổ) qua môi trường truyền bá đạo Phật của chữ Hán (Cổ). Nguồn gốc hình thành chữ phất trong tiếng Hán hỗ trợ cũng cho nhận xét trên – sau đây là các nét khắc/viết của chữ phất trong giáp văn, kim văn và chữ triện :
Seal Characters (chữ triện/ triện văn) Phất HV
弗
LST Seal Characters (chữ triện)
…v..v…
Bronze Characters (kim văn)
…v.v…
Oracle Characters (giáp văn)
…v.v…
Xem thêm chi tiết trên mạng của tác giả Richard Sears (cập nhật 2008) http://www.chineseetymology.org/CharacterASP/CharacterEtymology.aspx?characterInput=%E5%BC%97&submitButton1=Etymology
Các hình vẽ hay khắc trong giáp văn, kim văn và triện văn đều cho ta thấy dùng dây buộc hai thanh (gỗ?) với nhau. Hiểu xa hơn nữa : hai thanh gỗ đã bị nhập chung lại (phải ‘ở’ chung với nhau) và không còn trạng thái ‘tự do’ như trước … Như vậy nghĩa BUỘC nguyên thuỷ đã thay đổi nghĩa phần nào (thành ra chẳng, trừ) trong tiếng Hán. Phất theo Thuyết Văn là 橋也 kiệu dã (uốn nắn cho ngay) – thật ra không khác với buộc (cột lại cho ngay) cho lắm. Các cách dùng của phất trong các tài liệu cổ Trung Quốc đều có nghĩa là chẳng (không, phủ định) như
[論語·八佾]: 子謂冉有曰:“女弗能救與?”[ Luận Ngữ – Bát Dật ]: tử vị nhiễm hữu viết : ” nữ phất năng cứu dữ ? ” [爾雅·釋詁]: 乂,亂,靖,神,弗,淈,治也。[Nhĩ Nhã – Thích Cổ]: nghệ , loạn , tĩnh , thần , phất , cốt , trì dã .…v.v…
Tiếng Việt thật ra vẫn còn vết tích của nghĩa phủ định của buộc qua các cách dùng như
(Mường Bi)4Chăng cỏ tiền, puôc lòng phái lễ mở cả nhó nì đã
(Việt) Không có tiền nên buộc lòng phải lấy mớ cá nhỏ này
Câu trên còn hàm ý là KHÔNG muốn lấy mớ cá nhỏ, với phạm trù nghĩa mở rộng từ cụ thể (buộc dây) đến trừu tượng (ngược lại với ý mình). Như vậy BUỘC tiếng Việt thật là phong phú, và không phải ngẫu nhiên mà lại dùng chung với nhà Phật qua câu tục ngữ
Của người (thì) bồ tát, của mình (thì) lạt buộc
Chính vì ý thức được sự ràng BUỘC mà ta đi đến sự CỞI (CỔI) bỏ các dây liên hệ này : CỞI là âm cổ của giải 解, hay giải thoát (moksh-a मोक्ष )- một mục đích quan trọng trong Phật giáo để đạt được Niết Bàn (nirvana निर्वाण) – trạng thái tinh thần hoàn toàn tự do không bị ràng buộc …. Mối dây ràng buộc (như hình khắc của các chữ Phất nguyên thuỷ) còn tạo ra cái tôi, cái bản ngã (nhấn mạnh lần nữa qua bộ nhân đứng trước chữ phất) gây nhiều phiền luỵ, thành ra hiểu được mối tương tác này thì có thể hiểu được chân ngã hay vô ngã (anatman अनात्मन्) mà cởi nó ra (giải thoát). Các từ buộc và cởi đều rất gần gũi với con người, rất cụ thể của nền nông nghiệp phương Nam so với thuyết lý trừu tượng như Tánh Không mà sư Huyền Trang đã dẫn giải. Điều này còn nói lên hiện sự kiện Phật Tổ ra đời, sống và đắc đạo như một người bình thường chứ không phải đi tìm đến các tà thuyết rất xa lạ với con người cũng như là ngoại đạo vậy. Để nói lên tánh không8 (phủ định) thì đã có các dạng phiên âm của buddha là Vô Đà 毋陀 hay Một Đà 没陀, tại sao dạng Phật lại phổ thông hơn hết? Có thể là nghĩa nguyên thuỷ (ràng) BUỘC khi làm con người (bộ nhân) của phương Nam rất gần gũi với thời kỳ hình thành chữ/ âm BỤT và do đó đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu – âm BUỘC đã nghiễm nhiên trở nên thông dụng và trường tồn qua môi trường chuyên chở và truyền bá đạo Phật của chữ Hán, loại chữ có sẵn và trên đà phát triển ở khu vực Đông Nam Á và Trung Quốc thời đầu công nguyên.
Tóm lại, qua các dạng của động từ căn bản buộc trong tiếng Việt và láng giềng, ta có cơ sở để thành lập liên hệ buộc và âm Phạn Budh- (gốc của từ Buddha Phật Đà). Nhờ vào chữ Hán, môi trường chính chuyên chở và truyền bá đạo Phật vào thời sơ khai, cũng hỗ trợ cho cách dùng chữ buộc phương Nam qua cấu trúc của chữ Phật佛; Cùng với các chữ hiếm phất/phật (âm cổ là *but, hay buộc ) hàm ý trong các chữ này – những dữ kiện này cho thấy ảnh hưởng rất sâu sắc của phương Nam khi đạo Phật còn phôi thai ở Đông Nam Á và do đó dạng 佛vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay. Người viết xin mượn lời của vua Trần Nhân Tông ‘ … Bụt ở cung nhà, chẳng phải tìm xa …’ (hội thứ năm, “Cư Trần Lạc Đạo”) để kết luận phần 2 loạt bài này.
8. Phụ chú và phê bình thêm
Có hai hiện tượng khá lắt léo đáng được tóm tắt để người đọc dễ thông cảm với bài viết nhỏ này : đó là hiện tượng nhập ngược và hiện tượng đổi chữ (và nghĩa). Hiện tượng nhập ngược lại (back-loan) trong quá trình giao lưu văn hoá như Bụt-Phật, tên 12 con giáp (gốc Việt cổ) trong tiếng Việt không phải là hiếm – nhất là khi các dân tộc sống gần nhau qua một thời gian rất dài; Một thí dụ gần đây hơn và thường được nhắc đến đã xẩy ra vào thế kỷ 20 khi Nhật Bản du nhập văn minh Tây phương và dùng một số từ gốc Hán, sau đó các từ này nhập ngược lại tiếng Hán và sau đó nhập vào tiếng Việt
Xí nghiệp (HV) 企業 qi4 ye4 (Bắc Kinh) kigyō (Nhật)
Điện tử 電子 dian4 zi3 denshi
Nguyên tử 原子 yuan2 zi3 genshi
Thị trường 市場 shi4 chang3 shijō
Khoa học 科學 ke1 xue2 kagaku
Hàng Không Mẫu Hạm 航空母艦 hang2 kong1 mu3 jian4 kookuubokan
…v.v…
Hiện tượng đổi chữ (và nghĩa) thường xẩy ra khi âm gốc từ tiếng nước ngoài nhập vào mà người bản xứ không biết rõ nghĩa (vô tình) hay cố tình đổi cho hợp với ngôn ngữ của mình. Thí dụ như trường hợp của tên gọi 12 con giáp chẳng hạn, dễ nhận ra nhất là chi thứ tư Mão Mẹo (mèo) – người Trung Hoa, với chữ viết có sẵn (chữ Hán), đã đổi thành ra thố hay thỏ 兔 (thêm 1 nét nhỏ vào chữ mãn/miễn 免). Mãn đã từng là con mèo trong trong tiếng Việt! Xem thêm chi tiết các bài viết liên hệ trên mạng http://www.khoahoc.net/baivo/nguyencungthong/301106-muoihaicongiap-mao.htm và http://www.khoahoc.net/baivo/nguyencungthong/300409-muoihaicongiap-mao.htm . Hiện tượng đổi chữ (và nghĩa) cũng có thể xẩy ra trong trường hợp chữ Phật 佛 : có người đã hiểu bộ nhân hợp với chữ phất (chẳng, không) là Phật (Tổ) không phải là người thường … Mà hoàn toàn không để ý đến cấu trúc hài thanh (dùng để phiên âm) của đa số chữ Hán – một chức năng cơ bản của chữ viết loài người.
1)xem thêm chi tiết truyện Tấm Cám trên mạng
http://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%A5m_C%C3%A1m
2) xem thêm chi tiết về Chử Đồng Tử trên mạng http://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%AD_%C4%90%E1%BB%93ng_T%E1%BB%AD
3) trích từ bài viết “Introduction to BUDDHISM IN VIET NAM &VIETNAMESE ZEN” trên mạng http://www.buddhismtoday.com/english/vietnam/country/005-VietnameseBuddhism.htm
4) trích “Từ điển Mường-Việt” Nguyễn Văn Khang (Chủ Biên), Bùi Chỉ – Hoàng Văn Hành – NXB Văn Hoá Dân Tộc (Hà Nội, 2002)
5) dựa vào “Tự Điển Đồng Nguyên Việt & Đông Nam Á” Nguyễn Hy Vọng (California, 2006)
6) 袱 phục HV, fú BK so với âm fuk6 (Quảng Đông) hok8 (Hẹ, Mân Việt) âm cổ hơn là bọc còn duy trì trong tiếng Việt – theo Khang Hy : [ 字彙】房六切,音伏。包袱 [Tự Vị ] phòng lục thiết , âm phục . Bao phục. Tiếng Việt không dùng từ ghép bao phục (danh từ) để chỉ cái bọc (bao 包 là từ Hán Việt, gốc Hán-Tạng); Bao bọc nghĩa mở rộng để chỉ che chở, bênh vực … Để ý dạng hok8 của Mân Việt (Hẹ, Triều Châu, Đài Loan …) so với pok (Hàn), fuku, fukusa (Nhật).
7) trích từ Thư Viện Phật Giáo Hoa Sen, Diễn Đàn Phật Pháp – xem chi tiết bài viết trên mạng http://www.thuvienhoasen.org/ddpp-phat.html (tác giả Phan Mạnh Lương)
“ … Ðối với người Việt chúng ta ngày nay, ngoại trừ lớp cao niên còn quen thuộc với chữ Hán, nhiều người nhất là lớp trẻ đã đọc và viết theo vần La Tinh không biết chữ Phật viết theo lối chữ Hán như thế nào. Từ Phật佛, theo cách viết chữ Hán, gồm có hai vế: bên trái là bộ “Nhân”人 , bên phải là chữ “Phất” 弗.
Dùng pháp chiết tự để dẫn giải, bộ Nhân ở bên trái có nghĩa là “Người”.
Chữ Phất ở vế thứ hai, có nghĩa là “Không”, là chẳng được; theo thuật ngữ Phật giáo đó là Tánh Không.
Ghép cả hai vế lại với nhau, Phật nghĩa là Người Ngộ Tánh Không.
Diễn giải một cách toàn diện hơn bao gồm cả hai vế, khi nhìn thấy danh từ “Phật”, nó nhắc nhở người Phật tử, hay những ai biết chữ Hán, những điều nhận thức rất căn cốt và thâm diệu sau đây:
– Phật là một con người như tất cả mọi người.
– Vì cũng là con người cho nên Phật với chúng ta đều bình đẳng.
– Phật không phải là Tiên, Thánh hay Thần và nhất thiết không phải là một Thượng Ðế “Toàn Năng” như của bất kỳ tôn giáo độc thần nào có quyền ban ơn giáng họa mà người ta gán cho Thượng Ðế này.
– Mỗi người và mọi người đều có khả năng thành Phật, chứ Phật chẳng dành riêng cho ai.
– Muốn thành Phật thì phải tu hành và ngộ được Tánh Không, chưa ngộ Tánh Không thì chưa thành Phật.
– Tánh Không phải tu hành mới đạt được chứ không thể cầu xin hay do ai ban cho.
– Tánh Không là Phật Tánh….”
Người viết vẫn còn tra cứu thêm về nguồn gốc và thời điểm (tài liệu chữ Hán) của cách giải thích trên của ngài Huyền Trang cho thêm phần chính xác. Một điểm đáng nêu lên ở đây là tại sao Hán ngữ có thể dùng Không Tánh 空 性 cũng tương đương với Tánh Không 性 空 ? (thứ tự chữ ngược cũng được so với tiếng Việt). Cũng nên nhắc lại ở đây về lý thuyết phiên dịch của ngài Huyền Trang – ngài đã nhận ra được các trục trặc khi phiên dịch kinh Phật từ khác ‘hướng’ khác nhau – nên ngài đề nghị 5 điều cấm kỵ (không thể dịch được/Five Untranslatables, hay nên phiên âm trực tiếp) là :
7.1 Dharani 陀羅尼 (Đà La Ni, hay Đà La Na, Đà Lân Ni …) nghe giáo pháp mà giữ lại lời bí mật, chân ngôn, thần chú; Các cách dịch nghĩa là trì, tổng trì, năng trì, năng già …
7.2 Đồng âm dị nghĩa như Bhaga 薄伽 (Bạc Già, Bạc Ca): có nhiều nghĩa như dễ chịu, tên, may mắn, tôn trọng … Như trong cụm từ Bạc Ca Phạm (Bhagavat), một trong 10 danh hiệu của đức Phật, dịch là Thế Tôn; Cũng có thể là tên thần trong Ấn Độ giáo …v.v… Sư An Thế Cao (thế kỷ II SCN) từng dịch Bhagavat là Phật (Buddha), nhưng ngài Huyền Trang lại dịch là Bạc Già Phạn薄 伽 梵 chính xác hơn (xem bài viết của Jan Nattier, nguồn trích bên dưới).
7.3 Không có ở Trung Quốc như cây Jambu 閻浮樹 (Diêm Phù thụ, hay Diệm thụ, nay gọi là Thiệm Bộ) – tiếng Phạn (Sanskrit) và Phạn Nam (Pali) đều là jambu. Jambudvipa là lục địa có nhiều Diêm Phù thụ trong kinh cổ; Ấn Độ bây giờ có rất nhiều cây Jambu – nơi thường trú của tăng sỹ (lấy bóng râm, theo Du Già Luận Kí) – cũng là nơi Thái Tử Tất Đạt Đa từ bỏ địa vị để xuất gia và về sau trở thành Phật Tổ.
7.4 Không tôn trọng quá khứ như tên anuttara-samyak-sambodhi đã từng phiên âm là Anouputi 阿耨菩提 (A Nậu Bồ Đề) so với A-Nậu đa-la tam-điểu tam-bồ-đề, Vô thượng chính biến tri, Vô thượng chính biến đạo, Chân chính biến tri, Vô thượng chính đẳng …
7.5 Khuyến khích lòng tôn kính và ‘ngay thẳng’ như Prajna 般若 (Bát nhã) thay vì dịch ra là Trí Tuệ (智慧) hay Tuệ Minh …v.v…
Xem thêm chi tiết trên mạng về các lý thuyết phiên dịch qua tiếng Hán http://en.wikipedia.org/wiki/Chinese_Translation_Theory
Chính học giả Lê Quý Đôn (1726-1784) cũng đã nhận ra rằng ‘ … Kinh nhà Phật có Kinh, Luật, Luận và Tam Tạng. Từ Hán về sau, đời nào cũng có phiên dịch, tưởng cũng chưa được đúng, vì thanh điệu không thông. Nhà sư Huyền Trang, triều Đường, dịch kinh Phật. Vua Cao tông hạ chiếu cho đại thần xem lại những bản dịch ấy, nếu thấy chỗ nào chưa ổn, thì cho tuỳ ý sửa chữa. Thế thì Phạn bại (các bài tụng kinh Phật) đời Đường có phải đều là lời của Đại Hùng Thị (một danh hiệu của đức Phật Tổ) đâu? …’ – trích từ ‘Vân Đài Loại Ngữ’, tác giả Lê Quý Đôn – Trần Văn Giáp biên dịch và khảo thích, Trần Văn Khang (làm sách dẫn), Cao Xuân Huy (hiệu đính và giới thiệu) – NXB Văn Hoá Thông Tin (Hà Nội, 2006). Tiếng nói con người thay đổi theo thời gian đến nỗi ta khó nhận ra khả năng cùng nguồn gốc, đúng như Lê Quý Đôn đã nhận xét về ‘thanh điệu không thông’ : thí dụ như Phọc Sô (Vaksu) là một trong 4 con sông lớn nhất ở Diêm-Phù-đề đã từng có âm cổ hơn là Bắc-xoa (biến âm b > ph – xem phần 1); Vậy mà cũng có tài liệu Phật học ghi là “…Xưa gọi Bắc-xoa là sai …” (“Tự điển Phật Học Hán Việt” NXB Khoa Học Xã Hội – Hà Nội, 1998), và ngay cao đệ của Pháp Sư Huyền Trang là Khuy Cơ còn nhận xét rằng ‘Phạn văn Bột Ðà, ngọa lược vân Phật’! Chính những dạng phát âm khác nhau là cánh cửa hé mở cho ta nhiều thông tin về nguồn gốc và lịch sử của các chữ này thêm vào khả năng có thể đọc sai hay nhầm lẫn.
Gần đây hơn, tác giả Jan Nattier, thuộc Viện Nghiên Cứu Quốc Tế Phật Học, Đại Học Soka (Tokyo, Nhật) đã ghi nhận các lấn cấn trong tài liệu Trung Hoa khi phiên âm kinh bằng tiếng Phạn (các phương ngữ Phạn), qua các tiếng địa phương trước khi vào Trung Quốc. Người đọc có thể tham khảo bài viết (bản thảo) “Masquerading as Transcription : Substitution Terms in Buddhist Translations” – tạm dịch là “Giả như phiên dịch: cách dùng thay thế trong khi dịch kinh Phật” (2006) trên mạng http://iriab.soka.ac.jp/orc/2006-Symposium/Handout/2006-Sympo-Nattier.pdf
8) Vô 無 giản thể 无, hay Mu (tiếng Hàn, Nhật む) là một trong những công án nổi tiếng, thường dùng trong nhánh Thiền Rinzai bên Nhật. Khi một tăng sĩ hỏi sư Triệu Châu (778–897, tên Nhật là Jōshū) rằng “Con chó có phật tính hay không?”, sư trả lời “Vô” (không). Câu trả lời có hay không có đều có thể trúng hay sai! Hay chỉ là ảo tưởng/vô minh 無明 (dịch nghĩa từ tiếng Phạn avidya अविद्य). Cổ văn dùng vô 無 như vô 毋 (theo Khang Hy) – như vậy Vô Đà cũng có khả năng mang nhiều nghĩa sâu xa không kém Phật bộ nhân hợp với phất (không). Nhất là Tánh Không có thể áp dụng cho muôn loài, không chỉ cho con người? Đây là những vấn đề cần được tra cứu sâu xa thêm để làm sáng tỏ cách dùng chữ Phật theo đúng ý nguyên thuỷ (khi du nhập vào Á Châu). Một sự kiện liên hệ, đáng chú ý về hoạt động phiên âm và phiên dịch từ kinh Phạn là sư An Thế Cao 安世高 (sau này các tác phẩm dịch được sư Đạo An đời Tấn rất ngưỡng mộ) đã từng dịch Śūnyatā शून्यता là phi thường 非常, sau này mới trở thành vô thường 無常 – để ý nghĩa (hiện tại) rất khác nhau giữa hai cách nói con người phi thường so với con người vô thường. Vấn đề trở nên rất lý thú khi chữ Nôm dùng bộ nhân 人 hợp với chữ thiên 天 để chỉ Phật, như trong Phật Thuyết Đại Báo Phụ Mẫu Ân Trọng Kinh, Thiên Nam Ngữ Lục … Đây có thể là trường hợp sáng tạo ở Việt Nam (loại hội ý) như chữ Nôm trời viết bằng chữ thiên 天 hợp với chữ thượng上 (trên); Hay diễn dịch từ Tánh Không (không biểu tượng bằng không gian, trời hay thiên HV) để tạo ra chữ Phật bộ nhân hợp với thiên 天 (trời, không – trên không là trên trời) … Hay có thể là viết sai từ chữ Yêu/Phật 仸mà ra? Hay có hàm ý tiêu cực (yêu đạo, yêu nhân)? Ngoài ra, nếu quả thật Bụt (loại chữ vừa hài thanh, tượng hình và vừa hội ý – buộc) là gốc của chữ Phật 佛 , thì có thể chữ này là một trong những chữ Nôm đầu tiên có tuổi thọ rất cao (không bị đào thải trong vốn từ Hán) vì yếu tố tâm linh và tín ngưỡng của quảng đại quần chúng. Đây là các chủ đề cần nghiên cứu cẩn thận hơn để xác định rõ khả năng duy trì các âm cổ hay nghĩa cổ trong vốn từ chữ Nôm (cổ) của chúng ta.
Bụt hay Phật? (phần 2A)
Nguyễn Cung Thông
nguyencungthong@yahoo.com
Đức Phật trả lời dân Kalama – trích từ Kalama Sutta/tiếng Pali (tiếng Phạn Nam)
Ma anussavena : không nên tin những gì dù đã truyền đạt qua bao nhiêu đời (tạm dịch).
…
Ma Pitakasampadanena : không nên tin những gì dù đã được ghi nhận trong sách vở trước đây (tạm dịch).
…v.v…
Lời đức Phật trích từ Madhyamaka (Trung Luận) qua tiếng Pali (Malayasian) – Taapaac chedaac ca nikasat svarnam iva panditaih; Pariiksya bhiksavo graahyam madvaco na tu gauravaat : người khôn thử vàng (thật hay giả) bằng cách đốt, cắt hay chà (mài) – Này tỳ kheo – chỉ nên tin những lời này sau khi đã thử chúng chứ không chỉ vì tôn trọng (tạm dịch).
Bài viết ‘Bụt hay Phật? (phần 1)’ ghi lại hiện tượng dùng Bụt hay Phật một cách tổng quát, và chứng minh rằng Bụt chính là âm cổ của Phật còn duy trì trong ngôn ngữ dân gian của chúng ta. Phần 2 đi vào chi tiết cho thấy khả năng từ đơn tiết Bụt có thể từ phương Nam (Việt Hán) nhập vào tiếng Hán, sau đó trở thành Phật và từ Hán Việt/HV này nhập ngược lại tiếng Việt thời Đường Tống cũng như đa số các từ HV khác. Hiện tượng nhập ngược này có thể giải thích được phần nào qua các hoạt động dịch kinh Phật và sự hiện diện của các tăng sĩ Thiên Trúc (‘Hồ’) tại Giao Chỉ vào thời bình minh của đạo Phật ở Đông Nam Á. Phần này bổ túc cho phần 2 (gọi là phần 2A) cung cấp thêm các dữ kiện ngôn ngữ và nêu ra các vết tích của dạng Bụt hay *buot/buoc trong tiếng Việt và láng giềng, hi vọng thấy rõ thêm nguồn gốc phương Nam của từ đơn tiết Phật. Âm buộc của phất không phải là gượng ép mà thành vì chính học giả Hứa Thận thời Đông Hán cũng đã gợi ý này về chữ phất弗 :
8318 臣鉉等曰:韋所以束枉戾也 (Thần huyễn đẳng viết : vi sở dĩ thúc uổng lệ dã) – để ý thúc là buộc lại
Có nhiều cách hiểu về ghi nhận trên của Hứa Thận: hoặc dựa vào chữ vi (trái ngược) để dẫn đến một nghĩa rất trừu tượng là nghịch – ngược – không (chẳng) hay trái ý (phất ý, phật ý, phật lòng, mất lòng); Hoặc dựa vào chữ thúc để dẫn đến nghĩa cụ thể là bó (hai ‘thanh cây’ lại) hay buộc; Đây là một hoạt động rất căn bản và thực tế trong xã hội nông nghiệp truyền thống, thể hiện rất rõ nét khi nhìn nguồn gốc và cấu trúc của chữ phất . Tính chất cụ thể còn thể hiện qua cách dùng bốc như lửa bốc lên, mùi bốc ra … so với phất trong cách dùng cờ phất lên, làm ăn đã phất … (Việt Nam Tự Điển, 1954). Phần này sẽ không đề cập tới những lấn cấn như cách dùng Khổng Tử, Lão Tử so với Phật Tử, hay các từ đa tiết và đơn tiết của các ngôn ngữ Trung Á so với tiếng Việt: đây là những đề tài liên hệ nhưng cần tìm hiểu thêm để nhận ra chính xác hơn quá trình hình thành hiện tượng Bụt và Phật. Người viết sẽ tránh dùng các thuật ngữ Ngôn Ngữ Học, Phật Học … để người đọc dễ cảm nhận phần này hơn, các chi tiết về tài liệu tham khảo được liệt kê để các bạn có thể tra cứu thêm. Thanh điệu của một âm được ghi bằng số hay mẫu tự (như F là Falling tone) và đứng sau chữ đó , so với cách ghi thanh điệu tiếng Việt hay phiên âm (bính âm, pinyin) giọng Bắc Kinh/BK bây giờ. Các dữ kiện như tiếng Thái, Lào, Hán Việt … sẽ không có trích dẫn nguồn (vì rất dễ kiểm tra lại) so với những bài viết hay tài liệu ngôn ngữ đặc biệt hơn. Không nên lẫn lộn số phụ chú đứng sau một chữ với cách ghi thanh điệu trong bài.
1. Giới thiệu tổng quát
Các tài liệu về quá trình truyền bá đạo Phật1 ở Giao Chỉ cần được tra cứu thêm để hỗ trợ cho những dữ kiện ngôn ngữ, tuy nhiên nhiều tác giả đã viết về chủ đề này rồi và không cần phải nhắc lại ở đây. Đương nhiên là các dữ kiện khảo cổ (bia Võ Cảnh, di tích Phật ở Óc Eo …), lịch sử, tôn giáo … phải ăn khớp với dữ kiện ngôn ngữ để tăng mức chính xác. Trọng tâm của loạt bài ‘Bụt hay Phật?’ là giới thiệu các cách nhìn khác hơn như từ lăng kính Ngữ Âm Học Lịch Sử và cấu trúc chữ Hán, hi vọng soi sáng được phần nào thời kỳ phôi thai của đạo Phật ở Đông Nam Á. Hãy xem lại cấu trúc của chữ Phật 佛 : gồm có bộ nhân 人 hợp với chữ phất 弗. Chữ phất 弗được dùng làm thành phần hài thanh rất thường gặp trong quá trình cấu tạo chữ Hán. Có khoảng 55 chữ Hán có cấu trúc là các bộ thủ và chữ phất弗 (dựa vào Khang Hy). Tự điển Hán Việt có khoảng 10 chữ (dựa vào tự điển Thiều Chửu). Tuy nhiên hiện nay chỉ có khoảng vài chữ còn thông dụng như Phật 佛, phí 費 hay 费 (phung phí), phất 沸 (phí – nước sôi), phất 拂 (bật, phật – quét, trái) và các chữ này không có dạng giản thể. Ngày nay có các cách đọc (theo pinyin, giọng Bắc Kinh) khác nhau như sau với âm phất (fu) vẫn chiếm đa số hay là hơn 50%
nguồn http://chinese-characters.org/contained/5/5F17.html
Trong các chữ Hán dùng chữ phất, chữ Phật佛rất thường gặp với tần số dùng là 108885 trên 434717750 so với 费 phí là 75589 trên 369369126, sau đó là phất (quét, trái) với tần số dùng là 8247 trên 434717750 so với phất (phí – nước sôi) là 5436 trên 434717750 – dữ kiện trích từ tự điển trên mạng http://www.chineselanguage.org/dictionaries/ccdict/ . Sau đây là các nghĩa và cách dùng của chữ phất:
1.1 Động từ
Nắn cho thẳng (Thuyết Văn : kiểu dã, 說文 : 矯也)
Trái lệnh (vi ảo : 違拗)
Không muốn (như phất thanh 違拗, không muốn nói …)
1.2 Tính từ
Sôi (cũng như phí 沸)
Uất ức (cũnh như 怫 phật)
Không, chẳng (phủ định, như 不 phi, cùng một gốc)
1.3 Danh từ
Bút (cây viết, cũng như 筆 bút)
Phất/Phật Lăng (bây giờ thường thấy dùng Pháp Lang 法 郎 ở TQ hơn)
Phiên âm tiếng nước ngoài, tên riêng như 弗雷 Freyr (vị thánh trong thần thoại Norse), 西弗 Sievert (Sv, đơn vị phóng xạ), 氟 (chất Flourine, ký hiệu F) 斯坦弗 (si1tănfú, phiên âm Stanford) …v.v… Dùng chữ phất để ký âm là khuynh hướng thường gặp hiện nay.
Đáng chú ý nhất là âm BÚT vẫn còn duy trì trong tiếng Việt2, các cách đọc khác của BÚT là
粵語:bat1 Việt Ngữ :bat1 (Quảng Đông) so với bǐ, giọng Bắc Kinh/BK bây giờ
客家話:[客英字典] bit7 [沙頭角腔] bit7 [寶安腔] bit7 [台灣四縣腔] bit7 [梅縣腔] bit7 [海陸豐腔] bit7 [東莞腔] bit7 [陸豐腔] bit7 [客語拼音字彙] bid5
Khách Gia thoại :[ Khách Anh tự điển ] bit7 [ sa đầu giác khang ] bit7 [ Bảo An khang ] bit7 [Đài Loan tứ huyền khang ] bit7 [ Mai Huyền khang ] bit7 [ Hải Lục phong khang ] bit7 [Đông Hoàn khang ] bit7 [ Lục Phong khang ] bit7 [ Khách ngữ bính âm tự vị ] bid5 – so với phil (tiếng Hàn), fude (tiếng Nhật/kun) và hitsu (hầu hoá phụ âm môi đầu thành h, tiếng Nhật/on)
Bảng so sánh cho thấy tiếng Việt còn duy trì một âm thượng cổ của phất弗là BỤT so với Phật佛là BỤT, nhưng chiều ảnh hưởng là từ Hán sang Việt hay Việt sang Hán? Bài viết phần 2 đã đưa ra khả năng ký âm BUỘC (ràng buộc) của chữ Phật, phần này sẽ trình bày thêm một số dữ kiện ngôn ngữ phản ánh dạng *BUOC là từ phương Nam chứ không phải có nguồn gốc là tiếng Hán (Cổ).
2. Các dạng ký âm phương Nam của tiếng Hán (Cổ)
Trong vốn từ Hán Cổ có các chữ có thể là ký âm của tiếng phương Nam (Việt Cổ) nhưng vì không hợp với hệ thống âm thanh của nhóm cai trị phương Bắc, vô tình hay cố ý, nên từ từ bị đào thải; Thí dụ như tên 12 con giáp chẳng hạn (Tý, Sửu … Hợi), chúng không có liên hệ gì đến tên gọi 12 con vật trong tiếng Hán nhưng lại rất tương ứng với tên gọi 12 con vật trong tiếng Việt (nhánh Việt-Mường). Ta hãy khảo sát liên hệ của chữ Hán (Cổ) hiếm với tiếng Việt về dạng *BUOC
2.1 Chữ rất hiếm phật 䞞 viết bằng bộ tẩu hợp với chữ phất nghĩa là đi bộ, bước đi, nhảy … Trích Khang Hy :
䞞 [廣韻】符弗切【集韻】符勿切,音佛。【玉篇】走貌。【類篇】跳也。 又【集韻】芳未切,音費。義同
Phật [Quảng Vận ] phù phất thiết [ Tập Vận ] phù vật thiết , âm phật . [ Ngọc Thiên ] tẩu mạo . [ Loại thiên ] khiêu dã . Hựu [ Tập Vận ] phương vị thiết , âm phí . Nghĩa đồng
So dạng bước với các ngôn ngữ láng giềng ta có bươk (tiếng Aslian), pươk/pauk (Brou), prơk (Todrah), bôk (Bahnar), pước (Mường Bi)… Do đó ta có thể phục nguyên một dạng âm cổ là *BUOC cho chữ phật 䞞 này. Dạng này rất phù hợp với dạng phục nguyên *BUOC hay *BUOT/BUT của Phật đã ghi nhận ở phần 2 của loạt bài ‘Bụt hay Phật?’ (tóm tắt là佛hàm ý con người từ lúc sinh ra 人bị ràng buộc弗 – vừa ký âm bụt và vừa gợi ý giải thoát …). Chữ Nôm bước dùng bộ túc hợp với chữ bắc hài thanh 足北như trong
‘… Quét trúc bước qua lòng suối …’ (Nguyễn Trãi, 8b)
‘… Chân chẳng bước đến thành chợ …‘ (Truyền Kỳ Mạn Lục, II, 37a)
…v.v…
Âm HV bắc 北 có dạng âm cổ hơn là *pơk tương ứng với dạng *BUOC. Tiếng Mường Bi còn dùng pước môch (bước một), thàng nì nả mởi ti ản mẩy pước thơi (thằng bé này chỉ mới đi được mấy bước thôi). Trong vốn từ Hán có chữ hiếm bát 㞈 (Tập Vận : bắc mạt thiết, âm bát – [集韻]: 北末切,音撥) nghĩa là cẳng (chân) lớn, bước đi … Mà giọng Quảng Đông là but6, but3 cũng là dấu vết của các dạng ký âm (dùng các chữ khác nhau) của cùng một gốc.
2.2 Một chữ hiếm nữa là 䢌 bát (giọng Quảng Đông là but3) với thành phần hài thanh 巿 (đọc như phất):
䢌 bó BK but3 QĐ 廣韻】【集韻】北末切,音撥。【玉篇】急走也。【集韻】前頓也。又【集韻】普活切,音鏺。【廣雅】猝也。又蒲撥切,音跋。義同。又【說文】行貌。或作䟛
(BBT trang nhà Huệ Quang xin hoan hỷ tri ân tác giả đã gởi tặng bản điện tử để có dịp chia xẻ cùng đọc giả gần xa.)
Lời tâm sự:
Kính thưa BBT!
Đây là ba bài trong loạt bài về danh xưng Bụt hay Phật – nêu lên các dữ kiện ngôn ngữ cho thấy đóng góp của tổ tiên chúng ta vào văn hoá ngôn ngữ Hán (Cổ) mà ít người ý thức được … Nếu có phê bình hay bổ túc gì xin liên lạc với người viết để cùng nhau học hỏi …
Bụt hay Phật? (phần 1)
[Tác giả chân thành cảm ơn bác Nguyên.Ng qua nhiều trao đổi trên diễn đàn Viện Việt Học,California, Hoa Kỳ] Nguyễn Cung Thông