Lời Dẫn
Thi hào Tagore đã có lần ca ngợi đất nước Ấn Độ của ông qua mấy câu thơ:
“Khi anh cất lên tiếng gọi thì Họ đến
Ấn Độ Giáo và Phật Giáo, Kỳ Na Giáo và đạo Sikh,
Đạo Parsi, Hồi Giáo và Thiên Chúa.
Đông và Tây gặp nhau
Thể xác đồng nhất với tình yêu nơi linh thiêng của anh
Chiến thắng thuộc về kẻ tạo ra tâm hồn nhân loại
Chiến thắng thuộc về kẻ kiến tạo định mệnh của Ấn Độ.”
(Rabindranath Tagore)
Người ta nói “Địa linh sinh nhân kiệt,” quả không sai. Đất nước Ấn Độ có một vị thế địa lý rất đặc biệt. Đó là lưng dựa vào dãy Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ nhất thế giới, mặt nhìn ra Ấn Độ Dương biển cả mênh mông, lại còn có 2 con sông lớn là Ấn Hà và Hằng Hà như hai dòng sữa tươi nuôi một bình nguyên bao la và cũng là cái nôi của nền văn minh nông nghiệp định cư vào thời cổ đại. Chính ở chốn địa linh nhân kiệt đó nhiều vĩ nhân ra đời như đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Thánh Mahatma Gandhi, hiền triết Jiddu Krishnamurti, thi hào Rabindranath Tagore, v.v… và các tôn giáo, trường phái triết học lớn và lâu đời nhất thế giới được hình thành như Vệ Đà, Áo Nghĩa Thư, Ấn Độ Giáo, Phật Giáo, Kỳ Na Giáo, Đạo Sikh, v.v…
Tổng Quan
Câu chuyện về các tôn giáo lớn của Ấn Độ bắt đầu tại vùng thung lũng Ấn Hà vào khoảng 2,500 năm trước công nguyên. Ở đó thổ dân Dravidian đã thiết lập nền văn minh Harappa cực thịnh trước khi nhóm dân du mục Aryan đến chiếm ngự và làm chủ cả miền bắc Ấn Độ vào khoảng 1,500 năm trước công nguyên để dồn người Dravidian xuống miền nam. Từ đó trang sử các tôn giáo Ấn Độ bắt đầu. Lịch sử cổ thời của tôn giáo tai Ấn Độ là chuỗi thời gian của phân biệt giai cấp xã hội cực kỳ khắc nghiệt. Đứng đầu trong đẳng cấp xã hội là giới tăng lữ Bà La Môn với quyền hạn tuyệt đối về tư tưởng, tôn giáo, lễ nghi và luật lệ. Kế tiếp là đẳng cấp Sát Đế Lợi với vai trò cai trị xã hội qua lãnh vực chính trị và quân sự. Đẳng cấp thứ ba là Thương Nhân chi phối xã hội trong lãnh vực kinh tế. Sau cùng và thấp nhất là đẳng cấp Thủ Đà La bị thống trị bởi 3 giai cấp trên. Thân phận của giai cấp Thủ Đà La trong xã hội Ấn Độ cổ thời rất bi đát. Ba giai cấp trên xem họ như thành phần nô lệ. Một người Thủ Đà La khi ra đường nếu gặp 3 giai cấp trên thì không được quyền đối mặt mà phải tránh né, bởi vì 3 giai cấp trên cảm thấy bị xúc phạm và ô uế khi gặp trực tiếp người của giai cấp Thủ Đà La. Đó là một trong những mạng lưới phân biệt giai cấp bất công và tàn ác nhất trong lịch sử nhân loại. Khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni bắt đầu công cuộc chuyển hóa con người và xã hội qua giáo lý trí tuệ giác ngộ và từ bi bình đẳng của Ngài vào hậu bán thế kỷ thứ 7 và đầu thế kỷ thứ 6 trước công nguyên, thì xóa bỏ giai cấp là một trong những mục tiêu mà Ngài nỗ lực thực hiện.
Có 4 tôn giáo lớn được khai sinh ngay trên đất nước Ấn Độ. Đó là Ấn Độ Giáo (Hinduism), Kỳ Na Giáo (Jainism), Phật Giáo (Buddhism), và Đạo Sikh (Sikhism). 4 tôn giáo này dù được khai sinh tại Đông Phương, nhưng đã truyền bá ra ngoài biên cương Ấn Độ đến khắp nơi trên thế giới.
Ấn Độ Giáo, Phật Giáo, Kỳ Na Giáo và Đạo Sikh cùng có một số quan điểm chính về nghi lễ và văn học, nhưng được diễn dịch khác nhau theo từng nhóm và cá nhân. Chẳng hạn, lễ quán đảnh thì quan trọng trong 3 truyền thống nổi bật này, ngoại trừ Đạo Sikh (trong Phật Giáo cũng thực hiện với Kim Cang Thừa). Những nghi lễ khác đáng ghi nhớ là lễ hỏa táng, lễ thoa thần son lên đầu bởi những phụ nữ có chồng, và nhiều nghi lễ hôn nhân khác. Trong văn học, nhiều chuyện cổ tích và cổ sử được kể theo thể cách mới gồm có các tác phẩm thuộc Ấn Độ Giáo, Phật Giáo hay Kỳ Na Giáo. Tất cả 4 truyền thống đều có các khái niệm về nghiệp, pháp, luân hồi, giải thoát và nhiều thể thức thiền định và Yoga khác nhau. Dĩ nhiên, các phạm trù khái niệm này có thể được nhận thức khác nhau theo các tôn giáo khác nhau. Thí dụ, đối với người Ấn Giáo, pháp là bổn phận của ông/bà ấy. Đối với người Kỳ Na Giáo, pháp là điều đúng mà ông/bà ấy thực hiện. Đối với Phật tử, pháp thường được hiểu như là giáo pháp của đức Phật dạy. Tương tự như thế, đối với người Ấn Giáo, yoga là sự dừng lại của tất cả tư tưởng/hành động của tâm. Đối với người theo Kỳ Na Giáo, yoga là tổng hợp tất cả hoạt động thân thể, lời nói và tinh thần.
Điều đó cũng dễ hiểu bởi vì lịch sử các tôn giáo tại Ấn Độ khởi nguyên với tôn giáo Vệ Đà, sự thực hành tôn giáo của người Ấn gốc Aryan sơ khai, được thâu thập và biên soạn thành bộ Samhita (thường được biết tới như là Vệ Đà), gồm 4 tập hợp văn bản của các bài thánh ca hay thần chú được soạn theo tiếng Phạn cổ. Những văn bản này là những bài tụng chính của Ấn Độ Giáo. Thời gian sáng tác, biên soạn và chú giải những văn bản này được biết như là thời kỳ Vệ Đà, kéo dài từ khoảng 1,500 năm tới 500 năm trước công nguyên. Thời kỳ Vệ Đà này rất quan trọng đối với việc tập đại thành của 4 bộ Vệ Đà, các bản giải thích Vệ Đà, và Áo Nghĩa Thư cổ (cả hai cái sau đều đề cập đến việc giải thích các nghi lễ, thần chú và quan điểm trong 4 bộ Vệ Đà), mà ngày nay là những văn bản chính thống quan trọng của Ấn Độ Giáo. Vệ Đà phản ảnh các lễ nghi của Thời Đại Hậu Đồ Đồng tới Thời Đại Tiền Đồ Sắt của người Ấn nói tiếng Indo-Aryan. Thời đại cuối Vệ Đà (từ thế kỷ thứ 9 tới thế kỷ thứ 6 trước công nguyên) đánh dấu bằng sự xuất hiện của Upanisad (Áo Nghĩa Thư) hay Vedanta (Vệ Đàn Đà). Thời kỳ này báo trước sự bắt đầu của Ấn Độ Giáo cổ thời, với sự kết hợp của Upanisad, cuối thời sử thi tiếng Phạn, cũng được tiếp nối bởi Purana (cổ sử được viết theo thể loại mới).
Các tôn giáo tại Ấn Độ được phân ra làm 2 loại: hữu thần và vô thần. Các tôn giáo hữu thần tin vào quyền năng sáng tạo vũ trụ và con người của Thượng Đế mà đại biểu là Ấn Độ Giáo. Trong khi đó, các tôn giáo vô thần không tin vào quyền năng sáng thế của Thượng Đế mà chỉ tin vào khả năng tự tạo của con người gồm Phật Giáo và Kỳ Na Giáo. Cũng còn một cách giải thích khác về tôn giáo hữu thần hay vô thần dựa vào tiêu chuẩn tôn giáo đó có chấp nhận thẩm quyền của các bộ Vệ Đà hay không. Theo cách giải thích này thì Nyaya, Vaisheshika, Samkhya, Yoga, Purva Mimamsa và Vedanta là những giáo phái hữu thần, trong khi đó Phật Giáo và Kỳ Na Giáo là vô thần.
Trong hàng ngũ các trường phái vô thần còn có một trường phái triết học duy vật phát sinh vào khoảng thế kỷ thứ 6 trước công nguyên có tên là Carvaka. Dù không phải là một trong 6 trường phái triết học chính thống của Ấn Độ Giáo, sự xuất hiện của trường phái duy vật này cho thấy có một phong trào duy vật nổi lên trong chính Ấn Độ Giáo thời bấy giờ. Trường phái duy vật Carvaka chủ yếu nhắm vào việc phê phán các trường phái khác, và nó đã không tồn tại lâu dài trong truyền thống tôn giáo và triết học Ấn Độ. Ngoài ra còn có 2 trường phái triết học vô thần khác xuất hiện trễ hơn vào thế kỷ thứ 2 sau công nguyên là Samkhya và Mimamsa.
Đến thế kỷ thứ 15 sau công nguyên tại khu vực Punjab thuộc miền bắc Ấn Độ xuất hiện Đạo Sikh dựa trên giáo lý của Đạo Sư Nanak và 9 vị đạo sư kế thừa khác. Tín đồ Đạo Sikh tin vào Thần Vahiguru.
Đó là giới thiệu tổng quát về 4 tôn giáo chính của Ấn Độ, nhưng còn lịch sử hình thành và phát triển, tư tưởng chủ đạo, ảnh hưởng của mỗi tôn giáo chính đối với xã hội Ấn Độ thì thế nào? Sau đây xin giới thiệu về 4 tôn giáo chính và 2 tôn giáo đã có mặt tại Ấn Độ cũng khá lâu dù không phải được phát sinh từ đây là Hồi Giáo và Thiên Chúa Giáo.
Ấn Độ Giáo
Ân Độ Giáo không những là truyền thống tôn giáo lớn và lâu đời nhất của Tiểu Lục Địa Ấn Độ mà còn của cả thế giới. Ấn Độ Giáo không phải được khai sáng bởi một vị giáo chủ độc nhất hya có một hệ thống thống nhất về niềm tin hay tín điều, mà chỉ là một hiện tượng tôn giáo bắt nguồn và dựa vào các truyền thống Vệ Đà. Phó Tổng Thống Ấn Độ Sarvepalli Radhakrishnan từng phát biểu rằng Ấn Độ Giáo không chỉ là niềm tin mà còn là sự hợp nhất của lý trí và trực giác. Radhakrishnan cũng nhấn mạnh rằng Ấn Độ Giáo không thể được định nghĩa trên lời lẽ mà phải trải nghiệm. Ấn Độ Giáo có đặc tính cởi mở và bao dung được tất cả các niềm tin khác nhau. Người ta cũng có thể định nghĩa Ấn Độ Giáo như là một phương thức sống.
Chứng liệu xưa nhất về tôn giáo tiền sử của Ấn Độ mà sau này là Ấn Độ Giáo là vào Thời Đại Đồ Đá Mới tức khoảng thời gian của văn minh Harappa từ 5,500 tới 2,600 năm trước công nguyên. Niềm tin và sự thực hành tôn giáo thời đại cổ xưa (1,500 tới 500 trước công nguyên) được gọi là “tôn giáo Vệ Đà Lịch Sử.” Ấn Độ Giáo mà ngày nay chúng ta thấy được phát sinh từ các bộ Vệ Đà, mà văn bản cổ nhất là Rigveda, khoảng 1,700 tới 1,100 năm trước công nguyên.
Chữ Hindu bắt nguồn từ chữ Phạn Sindhu, là tên gọi theo lịch sử địa phương của con Sông Ấn Hà nằm ở phía tây bắc của tiểu lục địa Ấn Độ và được đề cập đến trước tiên trong Rig Veda. Chữ Hindu lần đầu tiên được những đội quân xâm lăng Ả Rập dùng và lưu truyền rộng trong ngôn ngữ Ả Rập như là al-Hind tức là lãnh thổ của những người sống chung quanh sông Ấn Hà. Chữ Hindu trong ngôn ngữ vùng Vịnh Ba Tư cũng còn được dùng để chỉ tất cả người dân Ấn Độ. Vào thề kỷ thứ 13, chữ Hindustan được biết đến rộng rãi như là chữ thay thế cho India, có nghĩa là “lãnh thổ của Ấn Độ Giáo.” Thuật ngữ Ấn Độ Giáo được giới thiệu trong tiếng Anh vào thế kỷ thứ 19 để nói đến truyền thống tôn giáo, triết học và văn hóa bản địa của Ấn Độ. Vào thế kỷ thứ 19, các học giả Max Muller và John Woodroffe đã thành lập một học viện nghiên cứu về văn hóa Ấn Độ từ một viễn cảnh của Âu Châu. Họ mang văn học Vệ Đà, cổ sử và kinh điển, và triết lý tới Âu Châu và Hoa Kỳ.
Ấn Độ Giáo thường được biết có nhiều hệ phái khác nhau. Theo lịch sử, Ấn Độ Giáo có 6 trường phái tư tưởng chính, nhưng chỉ có 2 trường phái Vedanta và Yoga là phát triển lâu dài. Hiện nay, Ấn Độ Giáo có các trường phái chính như Vaishnavism, Shaivism, Smartism, và Shaktism.
Các giáo thuyết chủ đạo của Ấn Độ Giáo gồm Dharma (Pháp, nguyên lý đạo đức và chức phận), Samsàra (Luân hồi, sống, chết và tái sinh), Karma (Nghiệp, hành động tạo tác và kết quả của hành động tạo tác), Moksha (Giải thoát khỏi luân hồi), và Yoga (các phương pháp tu tập). Những giáo thuyết này có vẻ trùng hợp với giáo thuyết của Phật Giáo và Kỳ Na Giáo, nhưng thực tế có nhiều khác biệt trong nhận thức và thực hành chúng trong Ấn Độ Giáo so với Phật Giáo và Kỳ Na Giáo.
Ấn Độ Giáo là một hệ thống tư tưởng phức hợp với những niềm tin sai biệt gồm nhất thần, đa thần, vô thần, phiếm thần, hoài nghi, v.v… và quan điểm về Thượng Đế của Ấn Độ Giáo thì phức tạp và tùy thuộc vào mỗi cá nhân và truyền thống hay triết lý đi theo. Đôi khi còn được xem như là nhất thần tức tôn thờ một vị thần duy nhất nhưng cũng chấp nhận sự hiện hữu của nhiều vị thần khác. Kinh điển Rig Veda, bộ kinh cổ nhất và triết lý Ân Độ Giáo không hạn chế quan điểm trên vấn nạn về Thượng Đế và sự sáng tạo vũ trụ, mà đúng hơn là khuyên cá nhân con người đi tìm và khám phá những câu trả lời về cuộc sống. Hầu hết tín đồ Ấn Độ Giáo tin rằng thần linh hay linh hồn được gọi là tiểu ngã (atman) là tồn tại vĩnh viễn. Theo giáo thuyết Ấn Độ Giáo, tiểu ngã là cái bóng mờ của Thần Brahma, vị thần tối cao. Mục tiêu sau cùng của đời sống là nhận thức được rằng tiểu ngã đồng nhất với Brahma. Áo Nghĩa Thư nói rằng bất cứ ai trở nên tỉnh giác hoàn toàn về tiểu ngã như là nội thể của tự ngã thì nhận thức được sự đồng nhất với Brahma, và do vậy, người đó cũng đạt tới sự giải thoát. Tóm lại, theo Ấn Độ Giáo tiến trình giải thoát cá nhân chính là tiến trình thể nhập và đồng nhất tiểu ngã (atman) với đại ngã Brahma.
Theo các trường phái nhị nguyên trong Ấn Độ Giáo như Dvaita và Bhakti thì Brahma là đấng tối thượng, và họ lễ bái, như Thần Vishnu, Thần Brahma, Thần Shiva, hay Thần Shakti, tùy theo trường phái. Ngược lại, các giáo nghĩa vô thần trong Ấn Độ Giáo như Samkhya và Mimamsa thì cho rằng người ta không thể chứng minh sự hiện hữu của Thượng Đế. Samkhya biện minh rằng một Thượng Đế bất biến không thể là nguồn gốc sinh ra thế giới biến đổi không ngừng. Giáo phái thuộc Ấn Độ Giáo như Vaishnava thờ Thần Vishnu; còn giáo phái Shaivite thờ Thần Shiva; và Shakta thờ Thần Shakti.
Về mặt thực nghiệm, Ấn Độ Giáo cho rằng để đạt tới mục đích cứu cánh giải thoát của cuộc sống người ta phải thực hành các phương pháp tu tập được gọi là Yoga. Các giáo nghĩa dạy về Yoga gồm có Bhagavad Gita, Kinh Yoga Sutra, Hatha Yoga Pradipika, Áo Nghĩa Thư. Yoga gồm có:
– Bhakti Yoga (tình yêu và hiến dâng),
– Karma Yoga (chánh nghiệp),
– Raja Yoga (thiền định), và
– Jnana Yoga (trí tuệ).
Các thần cũng được dùng như những phương pháp để xưng tụng và cầu nguyện giúp tập trung tư tưởng và bày tỏ sự hiến dâng lên Thượng Đế hay thần linh.
Theo thống kê dân số năm 2001, Ấn Độ Giáo là tôn giáo lớn nhất tại Ấn Độ với 80% dân số là tín đồ Ấn Độ Giáo. Ngoài ra, tại những quốc gia khác như Nepal, Ấn Độ Giáo có 23 triệu tín độ, tại Bangladesh có 14 triệu, và Đảo Bali có 3.3 triệu. Trên thế giới, Ấn Độ Giáo có số tín đồ đông đứng hàng thứ 3 sau Thiên Chúa Giáo và Hồi Giáo.
Ấn Độ Giáo đã ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống cá nhân của nhiều người nổi tiếng trên thế giới trong nhiều lãnh vực. Trong số đó có:
– Mahatma Gandhi (1869-1948) là nhà lãnh đạo phong trào đấu tranh bất bạo động giành lại độc lập cho Ấn Độ từ đế quốc Anh vào năm 1947. Nhưng không bao lâu sau ngày Ấn Độ độc lập, thánh Gandhi bị ám sát và qua đời vào ngày 30 tháng 1 năm 1948.
– Swami Vivekananda, triểt gia và nhà cải cách xã hội Ấn Độ, sinh năm 1863 và từ trần năm 1902.
– Rabindranath Tagore (1861-1941), thi hào và là người Ấn Độ được trao giải Nobel Văn Chương năm 1913.
– V. S. Naipaul, (1932- ) văn hào người Anh lãnh giải Nobel Văn Chương năm 2001.
– Aldous Huxley (1894-1963), văn hào người Mỹ gốc Anh với tác phẩm bất hủ Brave New World. Ông đến định cư tại Miền Nam California, Hoa Kỳ vào năm 1937 và sống ở đây cho đến cuối đời.
– Sir Chandrasekhara Venkata Raman (1888-1970) nhà vật lý học người Ấn lãnh giải Nobel Vật Lý năm 1930.
– Subramanyan Chandrasekhar (1910-1995) nhà vật lý học người Ấn lãnh giải Nobel Vật Lý năm 1983.
– Sabeer Bhatia (1969 – ) đồng sáng lập hệ điều hành trang mạng Hotmail là, đã từng làm việc cho hãng điện toán Apple và cùng với Jack Smith tạo ra Hotmail ngày 4 tháng 7 năm 1996.
– Rono Dutta cựu Chủ Tịch Hãng Hàng Không Mỹ United Airlines từ năm 1999 đến 2002.
– Indra Nooyi (1955 – ) Tổng Giám Đốc Hãng Nước Ngọt PepsiCo năm 2007, là người Mỹ gốc Ấn Độ.
Phật Giáo
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni Buddha), người khai sáng ra Phật Giáo, sinh vào năm 624 trước công nguyên tại Thành Phố Lâm Tỳ Ni (Lumbini) mà ngày nay là nước Nepal, phía bắc Ấn Độ. Ngài nguyên là Thái Tử Sĩ Đạt Ta (Siddhartha) của dòng họ Cồ Đàm (Gautama) thuộc nước Ca Tỳ La Vệ (Capilavastu). Phụ vương của Thái Tử là Vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và mẫu hậu là Hoàng Hậu Maya. Năm 16 tuổi Thái Tử kết hôn với Công Chúa Da Du Đà La (Yasodhara). Năm 29 tuổi Thái Tử vào Hy Mã Lạp Sơn để xuất gia tầm đạo tìm con đường giải thoát khổ đau cho mình và chúng sinh.
Trải qua 6 năm tầm sư học đạo, nhưng Thái Tử Sĩ Đạt Ta vẫn không thỏa mãn với những giáo thuyết và pháp môn tu của những vị đạo sư mà Ngài theo học. Cuối cùng vì tu theo khổ hạnh ép xác, Ngài đã kiệt sức và ngã quỵ bên giòng sông Ni Liên Thiền (Nairanjana) và nhờ bác sữa của nữ thí chủ Tu Xà Đa (Sujata) mà Ngài hồi phục. Sau Đó Thái Tử quyết định từ bỏ lối tu khổ hạnh và bắt đầu pháp môn riêng của Ngài. Ngài đến dưới gốc cây Bồ Đề (Bodhi Tree) ngồi thiền định. Sau 49 ngày đêm thiền tọa, cuối cùng Thái Tử đã đạt được sự giác ngộ hoàn toàn và trở thành vị Phật có tên là Phật Thích Ca Mâu Ni, vào năm Ngài 35 tuổi. Sau khi giác ngộ, đức Phật đến Vườn Lộc Uyển gặp lại 5 người bạn đồng tu lúc trước và dạy cho họ pháp môn giác ngộ mà Ngài đã thành tựu để họ được chứng đạo. Bài pháp đầu tiên mà đức Phật giảng — cũng gọi là chuyển Pháp luân tức lăn bánh xe Chánh Pháp — cho 5 anh em ông Kiều Trần Như nghe và tu tập là Tứ Diệu Đế, bốn chân lý mầu nhiệm (Khổ, Tập, Diệt và Đạo Đế). Và đó cũng là lần đầu tiên đức Phật thiết lập Tăng Đoàn với 3 ngôi báu là Tam Bảo: Phật, Pháp và Tăng. Đức Phật đã tuần tự đi bộ khắp lưu vực Sông Hằng để giảng dạy về pháp môn giác ngộ và giải thoát từ đó cho đến khi Ngài nhập Niết Bàn lúc 80 tuổi tức là vào năm 544 trước công nguyên.
Sakyamuni là tiếng Phạn, các nhà Phật học Trung Quốc dịch là Năng Nhơn Tịch Mặc có nghĩa là Người có khả năng tự dứt sạch vô minh phiền não và an trú trong vắng lặng của Niết Bàn. Chữ Phật tiếng Phạn là Buddha, các nhà Phật học Trung Quốc dịch là Giác Giả có nghĩa là vị đã giác ngộ hoàn toàn. Giác ngộ có 3 ý nghĩa: Tự mình giác ngộ (tự giác), giác ngộ cho người khác (giác tha), và hoàn thành sự giác ngộ cho mình và người (giác hạnh viên mãn).
Nội dung giáo nghĩa Phật Giáo có thể tóm lược trong 4 điểm chính: Vô Thường (Anitya), Khổ (Duhkha), Không (Sunya), và Vô Ngã (Anatma), thường được gọi là Bốn Pháp Ấn. Bốn giáo nghĩa này có mặt trong tất cả hệ thống giáo lý của các trường phái, bộ phái Phật Giáo từ Nguyên Thủy, Tiểu Thừa, đến Đại Thừa và ngay cả Kim Cang Thừa của Phật Giáo Tây Tạng. Vô thường là bản chất của mọi hiện tượng tâm lý và vật lý. Không một hiện tượng nào trên thế gian này thoát khỏi sự chi phối của vòng sinh, trụ, dị và diệt. Chính vì các hiện tượng chung quanh chúng ta đều vô thường nên làm cho đời sống của con người trở nên đau khổ. Khổ vì sinh, già, bệnh, chết; khổ vì mọi thứ đều tuột khỏi tầm tay kiểm soát của con người, ngay cả chính sinh mệnh của chúng ta nữa. Mọi hiện tượng đều vô thường và khổ não như thế nói lên một sự thật rất căn bản là tất cả mọi sự tồn tại đều là giả, không thật, là Không ngay tự bản chất, tức là Tánh Không. Khi các hiện tượng đều là Không trong tự tánh thì cũng đồng nghĩa là chúng không hề có tự ngã, chúng chỉ hiện hữu do các duyên hòa hợp mà thôi. Vì vô ngã, Phật Giáo không chấp nhận sự hiện hữu của Thượng Đế với ý nghĩa là đấng sáng tạo vũ trụ.
Trên bình diện nhân sinh quan, Phật Giáo cho rằng con người và mọi chúng sinh có thể tự mình giác ngộ ra chân lý và giải thoát mọi khổ đau ở đời, bằng con đường tu tập để chuyển hóa nghiệp lực, bởi vì nghiệp lực là do chính con người tạo ra và cũng phải do chính con người chấm dứt nó. Điều cần lưu ý là trong giáo thuyết về nghiệp, Phật Giáo không hề chủ trương có một thứ linh hồn hay bất cứ hiện tượng gì tồn tại trong ý nghĩa có một tự ngã.
Chính vì thâm cảm bản chất khổ đau của con người và tất cả chúng sinh, đức Phật đã mở rộng lòng từ bi đối với mọi loài và chủ trương tôn trọng mọi sự sống, bảo tồn môi trường sống thiên nhiên. Hình ảnh về cuộc đời sinh ra, thành đạo, sống, hoằng pháp, và nhập Niết Bàn dưới gốc cây, trong rừng núi của đức Phật là hình ảnh biểu thị lòng từ bi, bất bạo động và bao dung của Phật Giáo.
Dựa vào nội dung giáo nghĩa và lịch sử phát triển người ta phân Phật Giáo ra làm 3 truyền thống: Nguyên Thủy, Tiểu Thừa Bộ Phái và Đại Thừa. Nguyên Thủy Phật Giáo là thời kỳ đức Phật còn tại thế hàng đệ tử Phật nương oai đức và lời dạy trực tiếp của đức Phật làm kim chỉ nam cho sự tu tập, thời kỳ này nội dung giáo nghĩa của Phật vẫn còn ở dạng thức truyền khẩu, nghĩa là học thuộc lòng chứ chưa viết thành văn tự. Tiểu Thừa Bộ Phái là thời kỳ sau khi đức Phật nhập Niết Bàn khoảng 100 năm với sự giải thích dị biệt về giới luật và giáo nghĩa đưa tới sự phân chia làm nhiều bộ phái — có ít nhất trên 20 bộ phái được biết tới – trong thời kỳ này, những lời dạy của đức Phật đã được kết tập và viết thành văn tự trong 4 bộ Nikaya hay 5 bộ Kinh A Hàm mà sau này được dịch sang Hán văn. Phật Giáo Đại Thừa bắt đầu với phong trào vận động để đưa đạo Phật phổ cập vào xã hội với bộ phái Đại Chúng Bộ thuộc thành phần đại đa số và cấp tiến. Tuy nhiên, Phật Giáo Đại Thừa được khởi phát rõ rệt vào khoảng 600 năm sau Phật nhập diệt từc đầu công nguyên nhờ cuộc vận động của chư Bồ Tát Mã Minh (Asvaghosa), Long Thọ (Nagarjuna), Vô Trước (Asanga) và Thế Thân (Vasubandhu) với sự xuất hiện của Kinh Điển Đại Thừa và các bộ Luận xiển dương Đại Thừa như các bộ Kinh Bát Nhã, Pháp Hoa, Duy Ma Cật, v.v…, và các bộ Luận Đại Thừa Khởi Tín, Trung Luận, Đại Trí Độ Luận, Duy Thức, v.v…
Vào thời đại Vua A Dục (Asoka – 272-236 trước công nguyên), nhờ sự hỗ trợ tích cực của vị hoàng đế sùng mộ Phật Pháp này nhiều phái đoàn hoằng pháp đã được cử đi truyền bá Phật Giáo tại nhiều nơi trên thế giới qua đường thủy, trong đó có Tích Lan (Sri Lanka), Thái Lan, Miến Điện, Nam Dương, Việt Nam, v.v…. Đường truyền giáo này về sau lịch sử gọi là Nam Truyền Phật Giáo. Ngược lại, Phật Giáo Đại Thừa đã được truyền bá ra ngoài lãnh thổ Ấn Độ ở phía bắc đến các nước Afghanistan, Tây Tạng, Trung Quốc, Đại Hàn, Nhật Bản, Việt Nam, v.v… vào đầu công nguyên. Đường truyền giáo này được gọi là Bắc Truyền Phật Giáo.
Phật Giáo tại Ấn Độ đã trải qua nhiều thăng trầm tùy thuộc vào các triều đại chính trị có hậu thuẫn hay tiêu diệt Phật Giáo, dĩ nhiên, trong đó không thể bỏ qua yếu tố then chốt là sự hưng thịnh hay suy đồi của nội lực Phật Giáo mà hàng ngũ Tăng Ni và cư sĩ Phật tử đóng vai trò chủ đạo. Nhưng phải đợi đến một biến cố lịch sử mà qua đó Phật Giáo tại Ấn Độ đã hầu như bị tiêu diệt hẳn, đó là cuộc xâm lăng của Hồi Giáo vào Ấn Độ ở thế kỷ thứ 12 sau công nguyên, với chính sách tiêu diệt Phật Giáo tận gốc bằng việc bắt buộc tu sĩ hoàn tục hay giết hại hàng chục ngàn Tăng Ni, những người không chịu bỏ đạo, đốt phá tất cả chùa chiền, kinh sách Phật Giáo. Nhưng, nhờ trước đó, Phật Giáo đã được truyền bá ra ngoài lãnh thổ Ấn Độ đến các quốc gia lân bang, cho nên, Phật Giáo đã được phát triển sâu rộng tại nhiều nước ở Châu Á.
Ngày nay, tín đồ Phật Giáo trên khắp thế giới có thể đạt tới con số trên một tỉ rưỡi người, và Phật Giáo là một trong những tôn giáo phát triển mạnh nhất tại các nước Âu Mỹ.
Nói đến ảnh hưởng của Phật Giáo đối với những người nổi tiếng trên thế giới trong các lãnh vực thì nhiều, ở đây xin nêu ra một số nhân vật tên tuổi như sau:
– Aung San Suu Kyi (1945 – ) nhà hoạt động trong tinh thần bất bạo động cho tự do dân chủ Miến Điện từng đoạt giải Nobel Hòa Bình năm 1991 và cũng là nhà lãnh đạo Phong Trào Quốc Gia Vì Dân Chủ tại Miến Điện.
– U Thant (1909-1974) Cựu Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc đời thứ 3 từ 1961 tới 1971, gốc Miến Điện, sinh tại Pantanaw, Miến Điện.
– Văn hào Anh Christmas Humphreys (1901-1983) sáng lập Hội Buddhist Society của Anh Quốc vào năm 1924, với hàng chục tác phẩm nghiên cứu về Phật Giáo và văn học.
– Sangharakshita còn được biết dưới tên Dennis Philip Edward Lingwood là giáo sư Phật học và nhà văn sinh năm 1925 ở Anh, sáng lập the Triratna Buddhist Community.
– Richard Tiffany Gere, nam tài tử điện ảnh Hollywood, sinh năm 1949 tại thành phố Philadelphia, tiểu bang Pennsylvania, Hoa Kỳ.
– Steven Frederic Seagal, sinh năm 1952 tại thành phố Lansing, Michigan, là tài tử phim hành động, nhà sản xuất phim, nhà văn, nhạc sĩ đàn guitar, và cũng là người hoạt động cho môi trường, bảo vệ thú vật, ủng hộ cuộc vận động đòi Tây Tạng tự trị của Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14.
– William Oliver Stone, sinh tại thành phố New York và năm 1946, là đạo diễn, nhà sản xuất, và viết truyện phim Mỹ. Ông cũng là người đạo diễn loạt phim The Vietnam War vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990. Ông đã từ 3 lần được trao giải Academy Award.
– Tina Turner (cũng có tên Anna Mae Bullock) sinh tại Nulbush, Quận Haywood, tiểu bang Tennessee, Hoa Kỳ, vào năm 1939, là ca sĩ và nữ tài tử điện ảnh, được bầu là “Nữ Hoàng Nhạc Rock ‘n’ Roll.”
– Eldrick Tont “Tiger” Woods sinh tại thành phố Cypress, Nam California, Hoa Kỳ, và năm 1975, là ngôi sao môn thể thao golf.
Kỳ Na Giáo
Kỳ Na Giáo cũng giống như Ấn Độ Giáo vốn không do một vị giáo chủ — Tirthakar, bậc giác ngộ — độc nhất nào khai sáng mà do sự đóng góp của nhiều đời những nhà lãnh đạo, một phần vì lịch sử cổ đại Ấn Độ không được ghi chép đầy đủ do đặc tính của dân tộc này không xem trọng việc ghi chép sử. Người ta chỉ biết là theo những gì còn lưu truyền thì vào thế kỷ thứ 9 trước công nguyên có một vị đạo sĩ tên là Parshvanatha là một trong số các vị có công phát triển Kỳ Na Giáo.
Đến thế kỷ thứ 6 lại xuất hiện một nhân vật lịch sử uy tín nổi bật khác cũng có công rất lớn trong việc phát dương Kỳ Na Giáo là Vardhamana Mahavira (truyền thuyết cho rằng ông sinh năm 599 và mất năm 527 trước công nguyên), là vị thánh thứ 24 của Kỳ Na Giáo. Chính Mahavira là vị đạo sư hệ thống hóa giáo nghĩa Kỳ Na Giáo, thành lập tăng đoàn lớn và đưa ra chủ trương tu tập khổ hạnh và đạt mục tiêu giác ngộ. Các đệ tử của Mahavira đã tôn xưng ngài là Jina, có nghĩa là “người chiến thắng” và những đệ tử sau này đã dùng danh hiệu này để đặt tên cho chính họ là Jain, là người đi theo đấng Jina. Chữ Jain dùng để gọi tên cho Kỳ Na Giáo bắt đầu xuất hiện từ đó.
Thế kỷ thứ 3 trước công nguyên, vào thời đại đế quốc Kharavela, Kỳ Na Giáo đã bắt đầu phát triển rộng tại miền Nam Ấn Độ, khi mà vị lãnh đạo của cộng đồng tăng lữ Kỳ Na Giáo là Badrabadu từ Bihar đến Karnataka. Nhưng phải đợi tới vị lãnh đạo thứ 23 là Parshavanatha thì sử liệu mới ghi. Tuy nhiên, sự truyền thừa có tính lịch sử và liên tục về sau này thì phải đợi tới thời vị lãnh đạo Rishabhdeva. Hoàng đế Chandragupta Maurya lúc tuổi già đã từ bỏ ngôi vua và gia nhập vào tăng đoàn Kỳ Na Giáo. Hoàng đế Chandragupta là đệ tử của vị lãnh đạo Bhadrabahu. Triều đại Chandragupta Maurya cai trị Ấn Độ từ năm 321 tới 185 trước công nguyên. Cháu nội của Hoàng đế Ashoka là Samrat Samprati là người rất sùng mộ Kỳ Na Giáo. Giống như Hoàng đế Ashoka đã từng gửi nhiều phái đoàn hoằng pháp ra nước ngoài truyền bá Phật Giáo, Samprati cũng cử nhiều nhà truyền đạo tới Hy Lạp, Trung Đông để truyền bá Kỳ Na Giáo. Samprati cũng đã xây cất 125,000 ngôi chùa tháp Kỳ Na Giáo khắp lãnh thổ Ấn Độ mà một số ngôi chùa vẫn còn đến thời đại này.
Kỳ Na Giáo chủ trương bất bạo động đối với tất cả chúng sinh. Triết lý Kỳ Na Giáo tập trung vào việc nỗ lực thực nghiệm tự thân để chuyển tâm hồn đến sự tỉnh thức và giải thoát. Bất cứ người nào tự chế được tâm thoát khỏi những kẻ thù tham lam, sân hận thì đạt tới cảnh giới tối thượng gọi là jina tức là vị chinh phục hay chiến thắng.
Kỳ Na Giáo không tin vào đấng sáng tạo và bảo hộ vũ trụ vạn vật. Đối với Kỳ Na Giáo vũ trụ luôn luôn thay đổi theo luật tự nhiên và tin rằng có nhiều đời sống của nhiều loại chúng sanh khác, hữu tình và vô tình, trong và ngoài trái đất này. Kỳ Na Giáo cho rằng sân si và tham dục là kẻ thù độc hại của con người. Nguyên lý bất bạo động dùng để giảm trừ nghiệp lực của tham sân si là thế lực hạn chế khả tính giải thoát của tâm con người. Kỳ Na Giáo cũng nhấn mạnh đến sự bìng đẳng của tất cả chúng sinh, cổ võ đời sống không xâm hại đối với tất cả muôn loài, dù là nhỏ hay lớn. Để thực hành đời sống bất hại đến mọi loài, tín đồ Kỳ Na Giáo ăn chay trường, nhưng không được chặt hay nhổ rễ cây vì sẽ làm hại các sinh vật nhỏ sống dưới đó. Kỳ Na Giáo cũng không cho tín đồ ăn sau khi mặt trời lặn.
Hiện nay, tại Ấn Độ có khoảng 4.2 triệu tí đồ Kỳ Na Giáo. Tính theo tổng dân số Ấn Độ thì đó chỉ là nhóm tôn giáo thiểu số, nhưng có ảnh hưởng rất lớn đến đạo đức, chính trị và kinh tế của Ấn Độ. Bên ngoài Ấn Độ, trên thế giới, hiện thời có khoảng 12 triệu tín đồ Kỳ Na Giáo, và tất nhiên, đó cũng chỉ là nhóm tôn giáo rất nhỏ. Các cộng đồng Kỳ Na Giáo có mặt khắp nơi trên thế giới tại Hoa Kỳ, Anh Quốc, Gia Nã Đại, Kenya, Tanzania và Uganda, Nepal, South Africa, Nhật, Tân Gia Ba, Mã Lai Á, Úc Đại Lợi, Fiji, Suriname, Bỉ, v.v…. Ngôi chùa Kỳ Na Giáo được xây dựng đầu tiên bên ngoài Ấn Độ là tại thành phố Mombasa của Kenya, Phi Châu, vào thập niên 1960. Kỳ Na Giáo thực sự truyền bá đến Tây Phương vào cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980.
Trong số những nhân vật nổi tiếng trên thế giới chịu ảnh hưởng hay tín đồ Kỳ Na Giáo gồm có:
– Mahatma Gandhi (1869-1948), nhà lãnh đạo giành độc lập cho Ấn Độ từ đế quốc Anh. Thánh Gandhi chịu ảnh hưởng của Kỳ Na Giáo về tinh thần bất bạo động và hòa bình cũng như bảo vệ sinh mạng của mọi loài vật.
– Osho (1931-1990) sinh tại một làng nhỏ của Quận Raisen thuộc Tiểu Bang Madhya Pradesh, Ấn Độ. Ông là nhà huyền học, đạo sư nổi tiếng khắp thế giới với hàng chục tác phẩm được xuất bản và dịch sang nhiều thứ tiếng.
– Michael Charles Tobias sinh năm 1951 tại Mỹ. Ông là nhà văn và người làm phim. Ông tác giả của hơn 35 cuốn sách và 100 cuốn phim được phát hành, dịch sang nhiều thứ tiếng trên thế giới.
Đạo Sikh
Đạo Sikh được sáng lập vào thế kỷ thứ 15 tại khu vực Punjab thuộc Ấn Độ bởi Đạo Sư Nanak. Chữ Sikh bắt nguồn từ tiếng Phạn, có nghĩa là “đệ tử” hay sự giáo huấn. Theo giáo điển của Đạo Sikh thì một tín đồ Sikh được định nghĩa như là “bất cứ người nào tin thành thật vào một Đấng Bất Tử; 10 vị Đạo Sư, từ Đạo Sư Nanak trở xuống; là lời dạy của 10 vị Đạo Sư và tôn giáo được truyền lại bởi 10 vị Đạo Sư; và người không có bất cứ lòng trung thành nào với bất cứ một tôn giáo nào khác.”
Đạo sư Guru Nanak sinh ngày 15 tháng 4 năm 1469 và mất ngày 22 tháng 9 năm 1539 trong một gia đình Ấn Độ Giáo ở làng Rai Bhoi di Talwandi mà ngày nay gọi là Nankana Sahib, gần Lahore của Pakistan. Guru Nanak lập gia đình với Mata Sulakhni năm 19 tuổi. Hai vợ chồng có được với nhau 2 người con trai là Sri Chand và Lakhmi Chand.
Truyền thống Đạo Sikh kể rằng vào khoảng năm 1499, Đạo sư Nanak, ở tuổi 30, đã đắc đạo. Sau khi cử hành lễ tắm gội, ngài đã biến mất. Người ta phát hiện y áo trên bờ một con sông ở địa phương có tên là Kali Bein. Người dân địa phương cho rằng ngài đã chết đuối dưới sông. Họ cùng nhau lặn xuống sông để tìm thi thể của ngài, nhưng không ai thấy gì cả. Ba ngày sau, Đại Sư Nanak lại trở về và im lặng không nói gì. Ngày hôm sau, ngài tuyên bố: “Không có con đường nào của Ấn Độ Giáo hay Hồi Giáo để ta theo. Ta chỉ đi theo con đường của Thượng Đế. Thượng Đế không phải Ấn Độ Giáo hay Hồi Giáo và con đường mà ta đi theo chính là của Thượng Đế.” Đạo sư Nanak kể rằng ngài đã được dẫn đến gặp Thượng Đế. Ở đó, ngài đã được trao cho một ly rượu tiên và được bảo rằng “Đây là tách rượu yêu quý của Thượng Đế. Hãy uống đi. Ta sẽ ở với ngươi. Ta gia hộ ngươi và dưỡng dục ngươi. Bất cứ ai tưởng nhớ đến ngươi thì là được lòng ta. Hãy đi, vinh danh ta và giáo hóa người khác cũng làm vậy. Ta đã ban cho ngươi món quà của ta cho ngươi. Hãy để cho điều này là của ngươi.” Kể từ lúc đó trở đi, Nanak được tôn xưng là Đạo Sư, và Đạo Sikh được khai sinh.
Đạo Sikh chủ trương đồng nhất thể tâm với Thượng Đế. Tín đồ Sikh tu tập để tư tưởng và hành động thoát khỏi sự ô nhiễm của tham lam, giận dữ, dục vọng, vật chất, và bản ngã và từ đó hợp nhất tâm với Thượng Đế. Đạo Sikh tin rằng vòng sanh tử luân hồi là thoát ra từ đồng nhất thể này. Đạo Sikh cho rằng tất cả mọi người đều bình đẳng, và tình huynh đệ bao trùm khắp vũ trụ giữa con người và Thượng Đế Tối Cao. Năm nguyên lý căn bản mà tín đồ Đạo Sikh đặt niềm tin và thực hành là Sự Thật, Bình Đẳng, Tự Do, Công Lý, và Nghiệp.
Tín đồ Đạo Sikh được nhận dạng dựa vào 5 chữ K: 1) Kesh là tóc để dài và quấn lại; 2) Kara là vòng đeo tay bằng sắt tượng trưng cho sự bất diệt; 3) Kirpan là cây kiếm nhỏ mang theo người; 4) Kashera là cái quần lót làm bằng bông vải đặc biệt để nhắc nhở giữ gìn trinh bạch; và 5) Kanga là cái lược bằng gỗ thường để ở dưới chiếc khăn.
Bảo vệ quyền tự do tôn giáo và chính trị của tất cả mọi người và ngăn chận sự kỳ thị là một trong những phần quan trọng của niềm tin trong Đạo Sikh. Đạo sư thứ 5 của Đạo Sikh Arjan Dev đã tử vì đạo dưới chế độ Mughal vào ngày 16 tháng 5 năm 1606. Đạo sư thứ 9 của Đạo Sikh Teg Bahadur Ji cũng đã tử vì đạo để bảo vệ Ấn Độ Giáo từ cuộc đàn áp tôn giáo tại Delhi vào ngày 11 tháng 11 năm 1675, là một bằng chứng khác về sự bảo vệ tự do tôn giáo của nhóm thiểu số.
Đạo Sikh còn bênh vực quyền bình đẳng và tôn trọng phụ nữ nữa. Đạo sư Nanak đã từng nói rằng, “Từ phụ nữ mà đàn ông được sinh ra; với phụ nữ đàn ông được cưu mang; với phụ nữ mà đàn ông được đính hôn và làm đám cưới. Phụ nữ trở thành bạn của đàn ông; nhờ phụ nữ mà các thế hệ tương lai được có mặt. Khi người phụ nữ của đàn ông chết, ông ấy đi tìm người phụ nữ khác để lấy lại sức sống. Đã như vậy, tại sao gọi phụ nữ là xấu? Từ phụ nữ mà phụ nữ được sinh ra; nếu không có phụ nữ thì cũng không có ai cả.” Đó là điểm ưu việt của Đạo Sikh trong bối cảnh xã hội của thế kỷ thứ 15 sau công nguyên, khi mà xã hội loài người và đặc biệt xã hội Ấn Độ còn nhiều kỳ thị bất công đối với nữ giới.
Đạo Sikh chỉ chiếm 1.87% dân số Ấn Độ, nhưng lại rất có thế lực trong quân đội Ấn Độ. Số quân nhân và sĩ quan theo Đạo Sikh chiếm tới 15% quân số Ấn Độ, đó là tỉ lệ nhiều gấp 10 lần so với tất cả các tôn giáo khác tại Ấn. Tín đồ Đạo Sikh có nhiều người nổi tiếng như:
– Đương kim Thủ Tướng Ấn Độ Manmohan Singh là tín độ Đạo Sikh. Ông sinh ngày 26 tháng 9 năm 1932 tại Gah, khu vực Punjab, là người không thuộc Ấn Độ Giáo mà nắm quyền hành cao nhất trong hệ thống chính trị của Ấn Độ lần đầu tiên từ trước tới nay. Năm 2010, báo Newsweek ca tụng ông là “Nhà lãnh đạo được các nhà lãnh đạo khác quý mến nhất.” Báo Forbes trong năm 2010 đã chọn ông là người đứng hạng thứ 18 trong số những người có quyền lực nhất thế giới và là vị thủ tướng Ấn Độ có uy tín nhất trên toàn cầu kể từ Thủ Tướng Nehru.
– Giani Zail Singh (1916-1994) là chính trị gia Ấn được bầu làm Tổng Thống thứ 7 của Ấn Độ.
– Đương kim Thống Đốc South Carolina, Hoa Kỳ, là Nikki Haley, Đảng Cộng Hòa, cũng là người gốc Đạo Sikh, dù hiện nay, bà tuyên bố theo Tin Lành, nhưng vẫn thường xuyên đến tham dự các buổi lễ của Đạo Sikh vì đó là truyền thống văn hóa của cha mẹ.
Ở trên là giới thiệu về 4 tôn giáo lớn được khai sáng tại Ấn Độ. Tuy nhiên, qua suốt chiều dài lịch sử hàng trăm năm qua, Ấn Độ cũng là mảnh đất tiếp thu và trưởng dưỡng cho nhiều tôn giáo khác từ bên ngoài vào như Hồi Giáo và Thiên Chúa Giáo. Để biết thêm về 2 tôn giáo lớn hàng nhất nhì thế giới này có mối tương quan phát triển như thế nào với Ấn Độ, chúng ta sẽ tìm hiểu một cách đại lược về họ như sau.
Hồi Giáo Ở Ấn Độ
Hồi Giáo là nhất thần giáo, là tôn giáo cũng từ tổ phụ Abraham nhưng dựa trên Kinh Quran, mà tín đồ Hồi Giáo tin là lời mặc khải của Thượng Đế cho Giáo Chủ Muhammad – sinh năm 570 tại Thành Phố Mecca của nước Ả Rập Saudi, Trung Đông, và mất năm 632 sau công nguyên.
Hồi Giáo tin rằng Thượng Đế là độc nhất và Hồi Giáo giữ được thông điệp nguyên thủy dù những thiên khải cũng từng bị đổi thay một phần nào đó qua thời gian, nhưng Kinh Quran thì được xem như là lời mặc khải tối hậu từ Thượng Đế. Những thực hành của tín đồ Hồi Giáo gồm có cầu nguyện mỗi ngày, ăn chay trong thời gian mùa lễ Ramadan, giúp đỡ người nghèo, và hành hương vùng Thánh Địa Mecca ít nhất một lần trong đời.
Theo phúc trình từ cơ quan nghiên cứu PBS của Hoa Kỳ, vào năm 2009, trên thế giới có khoảng từ 1.2 tỉ tới 1.5 tỉ tín đồ Hồi Giáo, hay khoảng 20% của 6.8 tỉ dân số mặt đất, với 60% ở Châu Á, 20% ở Trung Đông và Bắc Mỹ.
Tại Ấn Độ hiện có khoảng 150 triệu tín đồ Hồi Giáo. Chính vì có dân số Hồi Giáo đông như vậy nên, Ấn Độ là nước có tín đồ Hồi Giáo đông hạng thứ 2 trên thế giới, sau Nam Dương (Indonesia).
Hồi Giáo đến Ấn Độ vào thế kỷ thứ 7 sau công nguyên theo đường buôn bán của các thương gia Ả Rập gốc tín đồ Hồi Giáo vào Bờ Biển Malabar. Mãi cho đến thế kỷ thứ 12, Hồi Giáo mới truyền bá tới miền Bắc Ấn Độ và cũng kể từ đó thâm nhập vào văn hóa và tôn giáo của Ấn. Đền thờ Hồi Giáo đầu tiên được xây dựng tại Ấn Độ vào năm 629 sau công nguyên, tại Kodungallur, Kerala, lúc Giáo chủ Muhammad còn sống.
Từ thế kỷ thứ 7 tới thế kỷ thứ 13, Hồi Giáo dựa vào thế quyền trong và ngoài nước đã thực hiện nhiều cuộc phá hoại chùa chiền, tàn sát tu sĩ, trấn áp tín đồ của Phật Giáo và Ấn Độ Giáo. Trong số cơ sở Phật Giáo bị Hồi Giáo phá hoại có Đại Tu Viện và cũng là Đại Học đầu tiên và lớn nhất của Phật Giáo là Nalanda, nơi mà Ngài Huyền Trang vào thời Nhà Đường của Trung Quốc đã có dịp đến học hỏi trong thời gian 5 năm (631-636), trong chuyến hành hương tham bái và nghiên cứu Kinh Điển Phật tại Ấn Độ từ năm 627 tới 641 sau công nguyên. Sau thế kỷ thứ 13, Phật Giáo tại Ấn Độ đã bị mai một hoàn toàn cho đến gần đây mới bắt đầu hồi phục lại phần nào. Trong thời kỳ xâm nhập vào Ấn Độ, Hồi Giáo đã thực hiện phương pháp cải đạo rất tàn ác. Đó là bắt người Ấn phải chọn lựa 1 trong 3 cách: theo Hồi Giáo, bị giết chết, hay bị đóng thuế nặng nề. Công cuộc cải đạo chính thức bắt đầu có hệ thống vào thế kỷ thứ 8 khi mà đoàn quân Ả Rập xâm lăng miền Bắc Ấn và lãnh thổ thuộc Pakistan ngày nay. Điểm đặc biệt là hầu hết những người cải đạo theo Hồi Giáo đều là thành phần giai cấp nghèo khổ của xã hội Ấn Độ. Ngoài ra cũng có người cải đạo theo Hồi Giáo thuộc các gia tộc vua chúa, trong đó có các vị vua thuộc Ấn Độ Giáo.
Nói chung, Hồi Giáo ở Ấn Độ cũng có 2 giáo phái chính như Hồi Giáo trên khắp thế giới, đó là phái Sunni và phái Shia và luôn luôn có sự căng thẳng, xung đột giữa 2 giáo phái này. Mỗi giáo phái đều có nhiều hệ phái khác nhau. Vào đầu thế kỷ 20, một số tổ chức Hồi Giáo cải cách thâm nhập vào Ấn Độ và muốn áp dụng triết lý Hồi Giáo vào thế giới hiện đại. Những tổ chức này muốn bãi bỏ tục lệ đa thê và cổ võ nền giáo dục cho nữ giới.
– Ba trong số 12 vị Tổng Thống của Ấn Độ là tín đồ Hồi giáo, gồm: Bác Sĩ Zakir Hussain, Bác Sĩ Fakhruddin Ali Ahmed, và Bác Sĩ A. P. J. Abdul Kalam.
– Mohammad Hamid Ansari là Phó Tổng Thống Ấn Độ hiện nay cũng là tín đồ Hồi Giáo.
Thiên Chúa Giáo Ở Ấn Độ
Thiên Chúa Giáo là tôn giáo lớn hàng thứ 3 tại Ấn Độ, với gần 25 triệu tín đồ, chiếm 3% tổng dân số.
Có thể nói, Thiên Chúa Giáo có một quan hệ đặc biệt với Ấn Độ mà ngoại trừ các tôn giáo được khai sáng tại Ấn Độ không một tôn giáo nào bên ngoài có được, kể cả Hồi Giáo là tôn giáo được truyền vào đây lâu đời. Lý do Thiên Chúa Giáo có mối quan hệ đặc biệt với Ấn Độ là vì chính Chúa Jesus – từ năm 12 đến 30 tuổi — đã từng đến Ấn Độ để học đạo [phần nhiều là học Đạo Phật] rồi trở về Do Thái để khai sáng Thiên Chúa Giáo. Chưa hết, sau khi Chúa Jesus bị đóng đinh trên thập tự giá nhưng được cứu sống, Ngài đã trở lại Ấn Độ sống thời gian còn lại của cuộc đời và từ trần ở đó.
Về mặt sử liệu hiện có, thì Thiên Chúa Giáo được truyền tới Ấn Độ vào năm 52 sau công nguyên do một trong những tông đồ của Chúa Jesus là Thánh Thomas lần đầu tiên đến Kodungallur tại Kerala để thành lập cộng đoàn Thiên Chúa Giáo cho người Do Thái di dân sống ở đây. Như thế, sự có mặt của Thiên Chúa Giáo tại Ấn Độ cũng đồng thời với sự có mặt đầu tiên của Thiên Chúa Giáo trên thế giới. Đây cũng là điểm đặc biệt của Thiên Chúa Giáo tại Ấn Độ. Kiến trúc nhà thờ có mặt xưa nhất trên thế giới mà được xây dựng bởi Thánh Thomas vào năm 57 sau công nguyên có tên là Thiruvithamcode Arappally hay Thomaiyar Kovil tại Quận Kanyakumari của Tamil Nadu, Ấn Độ. Ngôi nhà thờ này hiện đã trở thành trung tâm hành hương quốc tế có tên St. Thomas.
Đa phần Thiên Chúa Giáo tại Ấn Độ thuộc Công Giáo La Mã. Vào năm 1320, vị sứ thần đầu tiên của đức Giáo Hoàng Công Giáo La Mã, và cũng là người Âu Châu đầu tiên đến Ấn Độ là Hồng Y Jordanus Catalani, người Pháp thuộc giòng tu Dominican. Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha đầu tiên đến Ấn Độ là những tông đồ của thời đại mới cùng đi với nhà thám hiểm Vasco da Gama. Họ đến Kappad gần Kozhikode vào ngày 20 tháng 5 năm 1498. Cùng đi với đoàn thám hiểm thứ 2 của Bồ Đào Nha gồm 13 chiếc tàu, có 18 linh mục, dưới quyền điểu khiển của Thuyền Trưởng Pedro Alvares Cabral, đến Ấn Độ vào ngày 26 tháng 11 năm 1500 và thiết lập phái bộ truyền giáo Bồ Đào Nha đầu tiên tại Ấn Độ cũng vào năm này. Ngày nay, Thiên Chúa Giáo điều hành hàng ngàn cơ sở bất vụ lợi trong lãnh vực giáo dục và xã hội tại khắp đất nước Ấn Độ.
Phái bộ truyền giáo Tin Lành đầu tiên đến Ấn Độ là 2 mục sư Lutheran từ Đức Bartholomaus Ziegenbalg và Heinrich Pluetschau vào năm 1705. Họ chuyển dịch Kinh Thánh Tân Ước sang tiếng địa phương Tamil và sau đó dịch sang tiếng Hindustani. Trong thế kỷ thứ 19, nhiều nhà truyền giáo Tin Lành thuộc giáo hội Baptist Mỹ đã đến miền đông bắc Ấn Độ. Nhiều Giáo Hội lớn của Tin Lành có mặt tại Ấn Độ như Church of South India (CSI), Church of North India (CNI), Presbyterian Church of India, Baptist, Lutheran, v.v…
Sự có mặt lâu đời của Thiên Chúa Giáo tại Ấn Độ đã giúp cho tôn giáo này có những đóng góp tích cực vào xã hội Ấn qua nhiều lãnh vực mà đặc biệt là văn hóa, giáo dục và từ thiện xã hội. Chính vì thế, nhiều nhân vật tên tuổi của Ấn Độ đã là tín đồ hay chịu ảnh hưởng bởi Thiên Chúa Giáo, trong số đó có:
– Sonia Gandhi sinh năm 1946, là người Ý gốc Ấn Độ, vợ của Cố Thủ Tướng Ấn Rajiv Gandhi, bị ám sát năm 1991. Bà là Chủ Tịch Quốc Hội Liên Bang Ấn. Tạp Chí Forbes bầu chọn bà là người phụ nữ có quyền lực hàng thứ 3 trên thế giới của năm 2004.
– Mẹ Teresa, tên khai sinh là Agnes Gonxha Bojaxhiu, sinh ngày 26 tháng 8 năm 1910 và mất vào ngày 5 tháng 9 năm 1997, là nữ tu Công Giáo La Mã, gốc Albania và có quốc tịch Ấn Độ. Năm 1950, Bà thành lập Hội Từ Thiện tại Calcutta, Ấn Độ. Trải qua 45 năm, Bà phục vụ tận tình để giúp người nghèo, bệnh tật, trẻ em mồ côi và người chết. Hội Từ Thiện của Mẹ Teresa không những phát triển rộng khắp Ấn Độ mà còn có 610 chi nhánh phục vụ tại 123 nước trên thế giới. Năm 1979, Bà được trao giải Nobel Hòa Bình. Ngày 19 tháng 10 năm 2003, Đức Giáo Hoàng John Paul II đã chính thức phong Chân Phước cho Mẹ Teresa.
Kết Luận
Ấn Độ là quốc gia có dân số lớn hàng thứ 2 trên thế giới và là nền dân chủ lâu đời nhất tại Á Châu. Ấn Độ cũng là nơi sản sinh ra nhiều vĩ nhân kiệt xuất của nhân loại về tôn giáo, triết học, khoa học, văn học, và chính trị. Sở dĩ Ấn Độ có được các ưu điểm như thế vì đất nước này là lãnh địa phát sinh ra nhiều tôn giáo lớn với những ảnh hưởng và đóng góp rộng khắp vào sinh hoạt xã hội không chỉ riêng cho Ấn Độ mà còn cho cả nhân loại.
Chẳng hạn, Phật Giáo với chủ trương khai mở trí tuệ giác ngộ để giải thoát con người ra khỏi tất cả mọi trói buộc và hạn chế của vị ngã, đồng thời phát huy triệt để tinh thần từ bi bình đẳng của mọi người. Đó phải chăng là những nguyên lý căn bản và nền tảng mà xã hội Ấn Độ nương vào để phát triển theo chiều hướng tự do, dân chủ và tôn trọng quyền sống của muôn loài và quyền làm người của từng cá nhân trong xã hội? Hẳn là thế, bởi vì vào ngày 12 tháng 11 năm 1999, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc đã ra Nghị Quyết A/54/235 tôn vinh tinh thần từ bi và hòa bình của giáo lý Đức Phật như là giá trị quý báu mà cộng đồng thế giới cần trân quý và phát huy hàng năm qua việc tổ chức Đại Lễ Vesak để góp phần chuyển hóa những thù hận, bất công, bạo lực và chiến tranh trên hành tinh này.
Phật Giáo được khai sinh ở Ấn Độ, cho nên việc làm ấy của Liên Hiệp Quốc cũng làm cho dân tộc Ấn Độ hãnh diện.
Huỳnh Kim Quang (Phapvan.Ca)