Mười ba năm sau ngày Bồ Tát Quảng Đức tự thiêu, tôi được nghe một Bạn Đạo của Ngài kể lại: “Vì sao Ngài để lại Trái Tim“, như một huyền thoại, như một giai thoại Thiền thời đạị Người kể là Cố Hòa Thượng Thích Thanh Long, nguyên Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo, trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trước đâỵ Thời gian là vào đầu năm 1976 và địa điểm là Trại Cải Tạo Suối Máu, Tam Hiệp, Biên Hòạ Vào thời gian trước khi bị đưa ra Bắc, tôi được giam chung với hai vị Cố Hòa Thượng Thích Thanh Long và Thích Độ Lượng là những người lãnh đạo ngành Tuyên Úy Phật Giáo trong Quân Đội Miền Nam trước 1975. Nhờ cơ hội đó, tôi đã học hỏi được rất nhiều về Phật Pháp, về đức độ và về công hạnh của Ngài Thanh Long. Cũng nhân dịp này, tôi đã đặt câu hỏi về “Trái Tim Ngài Quảng Đức” có thật không và chuyện xảy ra như thế nào?
Hòa Thượng Thích Huyền Quang với trái tim bất diệt của Bồ Tát Thích Quảng Đức
Hòa Thượng Thanh Long đã trừng mắt nhìn tôi rồi nói: “Đó là sự thật một trăm phần trăm, thế cậu không tin à?” – Ngài thường dùng chữ cậu để xưng hô với tôi cho thân mật theo kiểu Bắc, thay vì dùng chữ anh hay đạo hữu – Và tôi trả lời: “Không phải con không tin về chuyện trái tim có thật hay không. Điều con thắc mắc là tại sao thiêu mà trái tim không cháỷ”
Hòa Thượng đã mỉm cười và ôn tồn nói: “Chính chúng tôi cũng không ngờ và chính tôi là nhân chứng về chuyện này, giờ tôi kể cho cậu nghẹ” Rồi Ngài bắt đầu thuật lại như sau:
“Tôi không nhớ rõ thời gian bao lâu trước ngày Thày Quảng Đức tự thiêu, trong một buổi họp kín giữa những thành phần lãnh đạo cuộc đấu tranh Phật Giáo tại chùa Xá Lợi, trong đó có tôị Sau khi bàn thảo xong các việc, đến phần linh tinh thì Thày Quảng Đức giơ tay, xin ghi tên tự thiêụ Vì là chỗ thân tình, mà cũng để đùa với ông, nên tôi nói: “Này Thày ơi! Mấy vị thiền sư khi chết thường để lại xá lợi đấy nhé. Vậy Thày định để lại cái gì?” Ngay lúc đó, theo phản ứng tự nhiên ông trả lời tôi: “Để lại trái tim được không?” Tôi đáp: “Được chứ, tốt lắm, tốt lắm!” Sau buổi họp hôm đó, tôi đã gọi Taxi đưa Thày Quảng Đức về chùa Quán Âm trước, rồi sau mới về chùa mình. Thời gian tiếp theo vì bận Phật sự và việc đấu tranh tôi cũng quên đi chuyện nàỵ
Đến ngày 20 tháng 4 năm Quý Mão tức ngày 11 tháng 6 năm 1963 thì Thày Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt vào lúc 11 giờ trưạ Khi đó tôi đang ở chùa Xá Lợi họp. Lúc đó tình hình rất căng, vì nằm trong thành phần lãnh đạo nên tôi ở luôn tại chùa Xá Lợi để được bảo vệ chứ không về chùa nữạ Nhục thân Thày Quảng Đức được mang về chùa Xá Lợi nên các Phật tử thường xuyên đến viếng, ngày đêm hàng ngàn ngườị Mãi năm ngày sau mới đem xuống thiêu tại An Dưỡng Địa Phú Lâm.
Vào chiều ngày 16-6-63, một thày trẻ phụ trách việc thiêu đã chạy về chùa Xá Lợi bạch rằng đã thiêu xong, nhưng không hiểu sao trái tim chưa bị rã, tôi và các vị lãnh đạo cho lệnh tiếp tục thiêu thêm 6 giờ nữạ Sáng ngày hôm sau, cũng thày trẻ trên đã về chùa Xá Lợi tay cầm trái tim mầu nâu cứng với nước mắt đầm đìa, nói rằng đã thiêu thêm lò điện không chỉ 6 giờ mà đến 10 tiếng đồng hồ nhưng trái tim vẫn còn, nên đành chịu mà phải mang về trình lên Hội Đồng Viện. Lúc đó tôi nghĩ rằng trái tim thuộc loại cơ nhục nên có lẽ không cháy, thôi thì để thờ. Bốn ngày sau, một Thượng Tọa bên Nguyên Thủy viên tịch cũng đem thiêu thì cốt thành tro hết, lúc đó tôi mới suy nghĩ và nhớ lại câu nói đùa của tôi và lời hứa của Thày Quảng Đức trong ngày ghi tên xin được tự thiêụ Và tôi tự giải thích rằng: Trong khi Thày Quảng Đức ngồi thiền để tự thiêu thì Thày đã dùng lửa Tam Muội là một thứ nội hỏa đốt đi trái tim của mình, khiến trái tim đã hóa thạch mà lửa thường không thể đốt nổị Lửa Tam Muội đã khiến trái tim Thày Quảng Đức thành Kim Cang bất hoạị”
Trên đây là tất cả những lời Hòa Thượng Thanh Long đã kể lại cho tôi nghe 24 năm về trước, tính đến hôm naỵ Nếu kể từ ngày Ngài Quảng Đức tự thiêu thì đến giờ đã 37 năm rồị Hôm nay, nhân sắpp đến ngày kỷ niệm xả bỏ nhục thân của Ngài, tôi viết những dòng này để cúng dường Ngài và Cố Hòa Thượng Thích Thanh Long, người bạn của Ngàị Nhân dịp này tôi cũng xin nhắc lại về Ngài Quảng Đức.
Ngài có tục danh là Lâm Văn Tuất, sinh năm 1897 tại làng Hội Ninh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòạ Thuở bé Ngài khó nuôi nên cha mẹ cho người cậu ruột làm con, đổi tên là Nguyễn Văn Khiết. Năm 7 tuổi gia đình cho Ngài xuất gia học đạo với Hòa Thượng Thích Hoằng Thâm. Năm 15 tuổi thọ Sa Di và 20 tuổi thọ Tỳ Kheọ Sau khi thọ giới Ngài bắt đầu tu năm na (m khổ hạnh tại núi Ninh Hòa rồi Ngài hành hạnh đầu đà, một y một bát du hóa khắp nơi, mãi sau mới về an trú tại chùa Thiên Ân thị trấn Ninh Hòạ
Năm 1932 khi Ngài được 35 tuổi đời và 28 tuổi Đạo thì Chi Hội Ninh Hòa của Hội An Nam Phật Học mời Ngài làm Chứng Minh Đạo Sự Từ đó Ngài đi hành hóa khắp các tỉnh Miền Nam Trung Việt, đã góp công kiến tạo và trùng tu được 14 ngôi chùa rải rác khắp miền. Năm 1943, Ngài rời miền Trung, vào Nam hành hóa tại các tỉnh Sài Gòn, Gia Định, Bà Rịa, Long Khánh, Định Tường và Hà Tiên. Trong thời gian này Ngài có lên Nam Vang thuộc Cambodia hành đạo ba na (m và nghiên cứu, học hỏi về kinh điển Palị Năm 1953, Ngài được Giáo Hội Tăng Già Nam Việt mời làm Trưởng Ban Nghi Lễ và Hội Phật Học Nam Việt mời Ngài làm trú trì chùa Phước Hòa, trụ sở của Hội tại Sài Gòn. Trong thời gian này Ngài đã góp công trùng tu và tạo lập được 17 ngôi chùạ Ngôi chùa mà Ngài thường trú lâu nhất là chùa Long Vĩnh tại quận Phú Nhuận, Gia Định, cho nên Phật tử Miền Nam thường gọi Ngài là Hòa Thượng Long Vĩnh. Chùa cuối cùng mà Ngài trú trì trước khi tự thiêu là chùa Quán Thế Âm, số 68 đường Nguyễn Huệ, quận Phú Nhuận, tỉnh Gia Đi.nh. Đường Nguyễn Huệ nay đổi là đường Thích Quảng Đức.
Ngài tự thiêu ngày 11-6-63, đã để lại một kỳ tích là “Trái Tim Xá Lợi”. Thông điệp của Ngài để lại là “Xả thân vì Đạo Pháp và Dân Tộc” với tinh thần Bi-TríĐũng sáng ngời và sự nhiệm màu của Phật Pháp. Cố Thi Sĩ Vũ Hoàng Chương ngay ngày đó đã nhìn lửa thiêu trên nhục thân Ngài mà cảm tác viết bài “Lửa Từ Bi”, chúng tôi xin trích ra đây ba đoạn mượn làm lời kết cho bài viết này:
“Thương chúng sinh trầm luân bể khổ
Người rẽ phăng đêm tối đất dày
bước ra ngồi nhập định, hướng về Tây
gọi hết lửa vào xương da bỏ ngỏ
Phật Pháp chẳng rời taỵ
Sáu ngả luân hồi đâu đó
mang mang cùng nín thở
tiếng nấc lên từng nhịp bánh xe quay
không khí vặn mình theo, khóc òa lên nổi gió
Người siêu thăng… giông bão lắng từ đây
bóng người vượt chín từng mây
nhân gian mát rượi bóng cây Bồ Đề
Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc
lụa hay tre, nào khiến bút ai ghi
chỗ Người ngồi: một thiên thu tuyệt tác
trong vô hình sáng chói nét từ bi…”
Lửa Quảng Đức mãi mãi soi đường cho Phật Giáo Việt Nam. Trái Tim Quảng Đức chứng tỏ rằng Phật Pháp trường tồn, bất diệt…
Mật Nghiêm Đặng Nguyên Phả (Theo: Thư Viện Hoa Sen)